HIỂU ĐÚNG NGHĨA CỤM TỪ “DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH”
Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” được Đại hội Đảng lần thứ X đặt ra là một sự sáng tạo để thực
hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cụm từ “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” nay đã trở nên phổ biến, dễ nhớ đối với quần chúng nhân dân. Tuy
nhiên, để hiểu cụm từ này một cách tường tận, lý giải đúng nghĩa theo quan
điểm, đường lối của Đảng thì chưa hẳn ai cũng lý giải toàn diện.
Để thống nhất hiểu một cách
đúng nghĩa cụm từ trên, đồng thời nhằm tránh những cách lý giải khác nhau, đặc
biệt là để chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chúng
ta cần phải hiểu đúng nghĩa nội dung của
mỗi khái niệm“dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ nhất: Về khái niệm “dân giàu”.
Trước hết, “dân giàu” là mong muốn của mọi
người dân, và được xem là một trong những tiêu chí của chủ nghĩa xã hội. Lâu
nay, chúng ta vẫn nói “dân cường nước thịnh ”, nói đến “dân giàu” là mục tiêu
phấn đấu của mọi nhà nước cho nhân dân của mình.
Theo quan điểm của Đảng ta ngày nay, dưới
chủ nghĩa xã hội “dân giàu” là một trong những điều kiện để nhân dân được hưởng
hạnh phúc. Khuyến khích làm giàu một cách hợp pháp, đi đôi với xóa đói, giảm
nghèo, chủ trương ấy không đi ngược lại mục đích của chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên chủ trương trên còn phải bao hàm các biện pháp, chính sách sao cho đúng
mục đích, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, dưới chủ nghĩa xã hội làm
giàu luôn là động lực phát triển kinh tế bên cạnh những động lực khác. Tại Hội
nghị lần thứ năm, khóa XII Đảng ta xác định: phát triển kinh tế tư nhân trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (NQ số 10)
Nếu chỉ hiểu và nói chung chung “dân giàu”
thì đây không phải đặc điểm riêng của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản cũng
thực hiện “dân giàu”. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản giàu bao giờ cũng đi đôi với
nghèo, như hai mặt đối lập không tách rời nhau. Phân hóa hai cực là quy luật
tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa xã hội vẫn còn tình trạng “người
này giàu hơn người kia”, song không còn “phân hóa hai cực”, bởi lẽ cơ sở, nguồn
gốc của tình trạng đó là chế độ bóc lột giá trị thặng dư đã bị xóa bỏ.“Dân
giàu” chỉ mang bản chất xã hội chủ nghĩa khi “dân giàu” đi đôi với công bằng xã
hội, tiến tới một xã hội
người người đều giàu, nhà nhà cùng giàu, căn bản không còn những người thu nhập
thấp, đời sống khó khăn, những người thất nghiệp phải sống nhờ vào cứu tế xã
hội. Dưới chủ nghĩa xã hội, nguồn gốc của “dân giàu” và xã hội giàu không phải
là bóc lột lao động trong nước, bóc lột lao động tài nguyên ở nước ngoài. Khi
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng hoàn chỉnh, mọi người chỉ có thể làm giàu từ
lao động, kể cả lao động quản lý; không lao động, lao động hiệu quả kém, lao
động giản đơn thì không có cơ hội “làm giàu”. Dưới chủ nghĩa xã hội không ai có
thể làm giàu chủ yếu bằng cách buôn bán cổ phiếu; càng không thể làm giàu bằng
đầu cơ và các hoạt động kinh tế chụp giật.
Dân giàu và xã hội giàu còn được thể hiện
ở những lợi ích công cộng phúc lợi xã hội ngày càng phong phú mà mỗi thành viên
xã hội đều được hưởng. Đối với chúng ta, một nước đang phát triển mục tiêu “dân
giàu” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Làm cho nhân dân ngày càng giàu là một
trong những mục tiêu chủ yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng là
thách thức vô cùng to lớn. Không những “phải cải biến tình trạng kinh tế - xã
hội kém phát triển” thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn phải vươn
tới địa vị một nước phát triển, tiến tới hội đủ hai yếu tố bảo đảm dân giàu:
Một là, có lực lượng sản xuất hiện đại dựa trên
trình độ khoa học công nghệ hiện đại, năng suất lao động xã hội cao, có tiềm
lực về tài nguyên “chất xám”, có một nền kinh tế tri thức phát triển cao. Dân
giàu đi đôi với công bằng xã hội là ước mơ ngàn đời của nhân dân ta, ước mơ ấy
chỉ có thể được thực hiện dưới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, xã hội công bằng với những cơ chế cho phép
mỗi cá nhân, mỗi cơ sở kinh tế được làm giàu một cách hợp pháp
Trong điều kiện của đất nước ta hiện nay
không thể đòi hỏi mọi người đều “làm giàu”. Nói “làm giàu không khó” là không
thực tế. Tuyệt đại đa số công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ, công chức - lực
lượng chủ chốt làm giàu cho Tổ quốc - đời sống đã được cải thiện nhiều song
chưa thể giàu được. Vấn đề ở chỗ việc khuyến khích làm giàu chính đáng song
không phải ai cũng làm giàu cho cá nhân được. Không nhất thiết phải làm giàu
cho bản thân mới có thể làm giàu cho đất nước. Không nên, không được phép chê
đất nước, chê nhân dân nghèo. Nếu ai có tư tưởng đó thì họ thực sự không hiểu,
không biết xuất phát điểm của đất nước ta từ đâu.
Thứ hai: Về khái niệm “nước mạnh”
“Nước mạnh” với tính cách đặc trưng của chủ nghĩa xã
hội không phải “nước mạnh” chung chung, hiểu theo bất cứ nghĩa nào mà “nước
mạnh” nói một cách cụ thể: nước
mạnh chỉ trở thành mục tiêu của chủ nghĩa xã hội khi “nước” là nước của nhân
dân, do nhân dân làm chủ; khi nước mạnh là điều kiện để nhân dân được hưởng hòa
bình, tự do, ấm no, hạnh phúc.
V.I.Lênin chỉ ra rằng; xây dựng và bảo vệ
chủ nghĩa xã hội chính là phải làm cho nước Xô viết trở thành Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa hùng cường. Đó là quan điểm xây dựng và bảo vệ chủ
nghĩa xã hội với tính cách Tổ quốc. Như vậy “nước mạnh” trong mối quan
hệ biện chứng, thống nhất với “chủ nghĩa xã hội vững mạnh”.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đại
hội IV của Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Ngày nay Tổ quốc ta đã hoàn toàn
độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một”, “có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc
ta mới có kinh tế hiện đại, văn hóa khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh;
do đó bảo đảm cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập tự do và ngày càng phát triển
phồn vinh”(1).
Cương lĩnh năm
1991 của
Đảng nêu bài học đầu tiên trong 4 bài học lớn của cách mạng Việt Nam như sau:
“nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt
quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ
chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau”(2).
Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, “nước mạnh” là một mục tiêu lớn vô cùng quan trọng. “Nước mạnh”
thể hiện ở ba vấn đề sau đây:
Vấn đề thứ nhất: Luôn nâng cao khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia, lợi
ích dân tộc trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Luôn duy trì đủ khả năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi
tình huống với các nội dung “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa”(3).
Vấn đề thứ hai:
Luôn tranh thủ tối đa
những cơ hội phát triển thông qua mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
thế giới toàn cầu hóa.
Vấn đề thứ ba:
Luôn nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, coi trọng quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân tất cả các nước trên thế giới. Vì " hòa bình, hợp tác phát triển vẫn
là xu thế lớn", là điều kiện thuận lợi để phát huy chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân; Việt Nam giàu mạnh là nhân tố tích cực của hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Tóm lại, “nước mạnh” là
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba: Về khái niệm “dân chủ”
Chúng ta phải hiểu; dân chủ nghĩa là
nhân dân làm chủ, trước hết làm chủ về chính trị tức nhân dân là chủ thể của
quyền lực trong quốc gia) vừa là động lực, vừa là mục đích và bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
“Dân
chủ" mà chúng ta đang nói ở đây không phải dân chủ chung chung dân chủ
hình thức, dân chủ cho một số ít người. Mà dân chủ với tính cách một tiêu chí
của CNXH ở Việt Nam là dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là dân là chủ đất nước và dân làm chủ mọi công việc của đất nước. Không chỉ
làm chủ về chính trị mà còn làm chủ trong kinh tế, xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiều quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công
việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ
chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(4)
Dân chủ là giá trị lớn của loài người
trong lịch sử và trong thời đại ngày nay. Chúng ta nên phân biệt dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Qua tổng kết thực tiễn, Đảng ta đi đến
nhận định quan trọng rằng muốn hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong đó quan trọng nhất là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, dân chủ không chỉ
là một chế độ nhà nước mà còn tồn tại với tư cách một chế độ tự quản của nhân
dân đối với mọi hoạt động xã hội. Do vậy, vai trò quản lý xã hội của các đoàn
thể nhân dân ngày càng tăng lên.
Thứ tư: Về khái niệm “công bằng”
Chúng ta khẳng định chắc chắn rằng: chủ
nghĩa xã hội là chế độ đầu tiên trong lịch sử loài người được xây dựng trên
nguyên tắc công bằng xã hội. việc xóa bỏ áp bức, bất công và những
cơ sở nảy sinh áp bức bất công, xây dựng các điều kiện để con người phát triển
tự do và toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc là mục đích của chủ
nghĩa xã hội. Đây là điều khác biệt căn bản giữa chế độ xã hội chủ nghĩa với
các chế độ xã hội có giai cấp.
Các học giả tư sản không đề cao giá trị
công bằng mà đề cao giá trị “dân chủ” “tự do” (theo kiểu chủ nghĩa tư bản).
Công bằng theo quan niệm tư sản là công bằng trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xem đó là quy luật tự nhiên, muôn
đời. Đó là công bằng trên cơ sở kinh tế không công bằng, là hình thức.
Xã hội công bằng mà chúng ta quan niệm, là
một trong những mục tiêu của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Công bằng xã hội mà chúng ta phấn đấu để đạt
được là công bằng theo quan điểm của chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế,
công bằng thể hiện trên cả ba mặt: công bằng trong quan hệ sở hữu, công bằng
trong tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất và hoạt động kinh tế nói chung, công
bằng trong phân phối kết quả lao động, của cải vật chất, văn hóa. Đó là nguyên
tắc làm theo khả năng, hưởng theo việc làm. Cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ
ngang nhau, không ai có đặc quyền, đặc lợi.
Công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế là
cơ sở, là điều kiện cốt lõi của công bằng xã hội nói chung. Ở nước ta, trong
thời kỳ quá độ, công bằng xã hội với
tính cách là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội thì chỉ có thể đạt tới khi chế độ công
hữu tư liệu sản xuất phải dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại thì mới bảo đảm
công bằng xã hội. Thực
tiễn cho chúng ta thấy, chế độ công hữu tư liệu sản xuất được áp đặt một cách
chủ quan duy ý chí, không dựa trên lực lượng sản xuất phát triển cao đã không
đưa đến công bằng xã hội lâu bền mà chỉ đưa đến “công bằng” theo chủ nghĩa bình
quân.
Tóm lại, tiêu
chí “công bằng xã hội”,
phải bao hàm mục tiêu tiến tới chế
độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu gắn với lực lượng sản xuất hiện đại xã
hội hóa cao.
Công bằng xã hội quan hệ mật thiết với
“dân chủ”, đòi hỏi “dân chủ” vì dân chủ là điều kiện tiên quyết để thực hiện
công bằng xã hội.
Thứ năm: Về khái niệm “văn minh”
Cũng như khái niệm “dân chủ”, khái niệm
“văn minh” lần đầu tiên được xem như một mục tiêu, tiêu chí của chủ nghĩa xã
hội. “Văn minh” là khái niệm rất rộng, rất chung, khá trừu tượng, có thể hiểu ở
nhiều góc độ, do đó, với tính cách đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
nội dung khái niệm “văn minh” cần phải được xác định cụ thể.
Theo quan niệm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen,
V.I.Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không phải một xã hội biệt
lập tách khỏi dòng chảy của nền văn minh nhân loại. Trái lại, chủ nghĩa cộng
sản là kết quả tất yếu của sự phát triển của văn hóa, văn minh. Nền văn minh mà
chúng ta cần phát triển và xây dựng là nền văn minh toàn diện và nhân bản nhất.
Đó không chỉ là văn minh vật chất - kỹ thuật mà còn là văn minh tinh thần,
không chỉ văn minh trong quan hệ giữa người với thiên nhiên mà còn là văn minh
trong quan hệ giữa người với người, văn minh trong tổ chức xã hội, văn minh
trong chất lượng cuộc sống và lối sống. Đó là nền văn minh của một xã hội “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng”, nền văn minh của một xã hội do nhân dân
làm chủ. Nền văn minh xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả của sự kế thừa
những thành tựu của văn minh nhân loại kết hợp với sự kế thừa những giá trị tốt
đẹp của truyền thống dân tộc. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải là một xã hội
hiện đại, văn minh, giàu bản sắc dân tộc. Văn minh là đất nước do dân làm chủ; "Có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnhphúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân các nước trên thế giới”.
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh" là những mục tiêu không tách rời nhau, bổ
sung cho nhau, mục tiêu này làm cơ sở, điều kiện, tiền đề cho mục tiêu kia. Đó
là những mục tiêu lâu dài, những giá trị bền vững, từng bước được hiện thực hóa
trong quá trình đổi mới đất nước trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Biển Đông
Nhận xét