LIỆU NGÀY NAY GIAI CẤP CÔNG NHÂN CÓ CÒN BỊ BÓC LỘT?
Có người lập
luận rằng ngày nay ở các nước tư bản phát triển mức sống của đa số công nhân đã
được nâng cao hơn trước rất nhiều, không ít người lao động đã mua được cổ
phiếu, xuất hiện tầng lớp trung lưu đông đảo, nên chủ nghĩa tư bản đã thay đổi
bản chất, không còn là xã hội dựa trên cơ sở bóc lột giá trị thặng dư nữa.
Nhưng khi
nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư tương đối chúng ta đã thấy rõ rằng nhờ ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật , tăng sức sản xuất của lao động, trước hết trong những
ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và những ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
sản xuất tư liệu tiêu dùng, với độ dài ngày lao động không đổi, thời gian lao
động rút ngắn lại, thời gian lao động thặng dư tăng lên nhờ đó tăng khối lượng
giá trị thặng dư tương đối.
Thậm chí còn có
thể rút ngắn ngày lao động mà vẫn thu được khối lượng giá trị thặng dư nhiều
hơn trước. Từ đó, đời sống người lao động được cải thiện nhưng mức độ lao động
bóc lột không công lại tăng hơn trước. Về phía nhà tư bản vừa có thể sống xa
hoa hơn trước lại có thể tích lũy nhiều hơn để tăng nhanh quy mô sản xuất. Ví
dụ, trước đây, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, lao động thủ công là phổ biến,
sức sản xuất của lao động thấp, ngày lao động kéo dài 12 giờ, trong đó 8 giờ là
lao động tất yếu(bù lại tiền công) và 4 giờ lao động thặng dư. Giả dụ vì năng
suất lao động thấp nên số sản phẩm chứa đựng giá trị mới là 60 đơn vị, trong đó
sản phẩm tất yếu là 40, sản phẩm thặng dư là 20, nên mức sống của người công
nhân rất thấp và nhà tư bản cũng chỉ thu được một lượng giá trị thạng dư rất
nhỏ đành phải “tiết dục” chi tiêu tằn tiện đồng thời giá trị thặng dư tích lũy
nhỏ. Ngày nay, do sự đấu tranh của giai cấp công nhân và sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật ngày lao động rút ngắn còn 7 giờ chẳng hạn, trong đó thời gian lao
động tất yếu là 2 giờ. Nhưng do năng suất lao động cao, nhờ ứng dụng những
thành tựu khoa học công nghệ nên lượng sản phẩm chứa đựng giá trị mới là 5600
đơn vị trong đó với 2 giờ lao động tất yếu người công nhân nhận được 1600 sản
phẩm cho tiêu dùng cá nhân(gấp 40 lần trước đây), do đó mức sống được nâng cao.
Nhưng mức độ bóc lột lại tăng từ 50%(4 giờ/8 giờ .100%) tăng lên 250% (5 giờ/2
giờ. 100%) còn nhà tư bản có thể nhận
được từ mỗi công nhân 4000 sản phẩm thặng dư, nhờ đó vừa sống xa hoa, vừa tăng
được quy mô tích lũy. Như vậy, dù đời sống của công nhân ở các nước tư bản tăng
lên hơn trước nhưng quan hệ bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại.
Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu
hoá sản xuất và đời sống, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước quốc tế thông qua
xuất khẩu tư bản, thông qua di chuyển lao động từ nước này sang nước khác,
thông qua việc bành trướng của các công ty xuyên quốc gia… Khiến cho việc sản
xuất giá trị thặng dư mang tính quốc tế, giá trị thặng dư được tư bản hoá, được
xuất khẩu để quốc tế hoá tư bản với sự đa năng của các hình thức sản xuất giá
trị thặng dư.
Chủ nghĩa tư bản đương đại mặc dù có
những bước phát triển mới, biến đổi về mặt lượng và chất cục bộ, nhưng bản chất
bóc lột của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi. Song sẽ là phi lịch sử nếu
không xem xét cái mới trong sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
Trước hết, đó
là sự bóc lột mang tính chất quốc tế. Không chỉ giai cấp tư sản nước Anh hoặc
nước Nhật bóc lột giai cấp công nhân bản
địa của họ mà là tập đoàn tư bản quốc tế bóc lột phần dân cư còn lại. Ngày nay,
phần lớn giá trị thặng dư mà những người lao động tạo ra chủ yếu nằm trong tay một
nhóm ít người trên thế giới. Tư bản không chỉ bóc lột công nhân lao động cơ
bắp, mà chủ yếu là bóc lột công nhân trí thức. Tỷ suất giá trị thặng dư ngày
càng tăng lên và bóc lột rất tinh vi, bằng phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tương đối là chủ yếu, đồng thời với việc nâng cao mức sống của người lao
động cả về vật chất và tinh thần. Bóc lột các nước kém phát triển thông qua
xuất khẩu hàng hoá, xuất khẩu tư bản, xuất khẩu kỹ thuật… với nhiều cách thức,
thủ đoạn khác nhau.
Đặc điểm nổi bật của sự bóc lột này
là sự tước đoạt lao động của người khác được thực hiện dưới hình thức giá trị
nên nhìn bề ngoài dường như trong xã hội tư bản mọi quan hệ kinh tế giữa chủ tư bản- người sở hữu tư liệu sản
xuất và người lao động - kẻ bán sức lao động làm thuê là quan hệ bình đẳng cùng
có lợi, “kẻ có của, người có công” nên rất khó nhận diện. C.Mác đã kết luận
rằng sự bóc lột của tư bản với công nhân thông qua hình thức giá trị thặng dư
là tàn nhẫn. Do những tiến bộ đạt được về kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất đã
cho phép nâng mức độ bóc lột lên rất cao, tỷ lệ giá trị mà nhà tư bản thu được
so với mức chi phí tiền công thuê công nhân có thể lên đến 100%, 200%, thậm chí
300%. Có thể nói, đây là hình thức bóc lột nặng nề nhất nhưng cũng là hình thức
bóc lột tinh vi và che dấu nhất mà các hình thức bóc lột đã tồn tại trong lịch
sử nhân loại không thể so sánh được. Vì vậy, nó làm cho lòng thèm khát lợi
nhuận của tư bản bị kích thích đến mức độ cao nhất, thậm chí phi nhân tính.
Tinh vi và che dấu là vì nhìn bề ngoài dường như quan hệ chủ - thợ là quan hệ
“sòng phẳng”, “bình đẳng”, và “cùng có lợi”, không ai bị chế ước. Khi nói về
tội ác và lòng thèm khát của tư bản với
giá trị thặng dư Mác đã nói rằng tư bản ra đời có máu và bùn nhơ rỉ ra từ các
lỗ chân lông của nó. Chính nhà kinh tế học người Anh, T.J.Dunning cũng đã thừa
nhận rằng: “ Tư bản sợ tình trạng không có lợi nhuận, hoặc lợi nhuận quá ít,
cũng như giới tự nhiên sợ chân không. Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản
trở nên can đảm. Được bảo đảm 10% lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản đầu
tư vào đâu cũng được; được 50% thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100% thì nó
chà đạp lên mọi luật lệ của loài người; được 300% thì không còn tội ác nào nó
không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ ”.[1]
C.Mác đã trình bày sự bóc lột của tư
bản đối với người lao động thông qua hình thức bóc lột giá trị thặng dư trong
bộ Tư bản qua các hình thức như đã
trình bày ở trên và rằng “Tư bản là lao động chết, nó như con quỷ hút máu chỉ
sống nhờ hút được lao động sống, và nó càng hút được nhiều lao động sống bao
nhiêu thì nó lại càng sống được nhiều bấy nhiêu”[2].
Sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước quốc tế đã làm cho sự
bóc lột giá trị thặng dư mang tính chất hai mặt; vừa tăng cường, vừa hạn chế.
Tăng cường, vì có môi trường đầu tư thuận lợi, cung cấp tư liệu sản xuất chỉ
dẫn, định hướng quá trình sản xuất giá trị thặng dư, điều chỉnh dòng chảy giá
trị thặng dư tư bản hoá. Hạn chế, sử dụng các chính sách, luật lệ điều chỉnh khi
sự bóc lột của các công ty tư bản “quá ngưỡng” có thể xảy ra nguy cơ xung đột
về chính trị và xã hội.
Suy cho cùng, giai cấp công nhân
ngày nay không những vẫn bị bóc lột mà còn bị bóc lột một cách tinh vi hơn,
nặng nề hơn… Và vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu
tranh chống lại sự áp bức bóc lột của CNTB
để xây dựng xã hội mới của mình vẫn là tất yếu./.
N.T.N
Nhận xét