BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC CẦN TỈNH TÁO TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỂM PHẢN KHOA HỌC, PHI THỰC TẾ
Hiện nay, có một số người “nhân danh lòng yêu nước”, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, phát tán tài liệu trên mạng xã hội, đăng trên một số tạp chí của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, với luận điểm: Chỉ có“nắm lấy bàn tay của một nước phát triển nào đó”; “chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo...”. Thực chất luận điểm đó có đúng khoa học và phù hợp với thực tiễn quan hệ quốc tế không?
Từ lịch sử quan hệ quốc tế - địa chính trị khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương và thực tiễn ở Việt Nam cho chúng ta những nhận định
như sau:
Một là, những bất đồng, tranh chấp ở Biển Đông hiện nay không chỉ liên quan
đến 5 nước 6 bên có yêu sách chủ quyền mà còn trực tiếp liên quan đến hòa bình,
ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông và khu vực.
Đây là vấn đề phức tạp, lâu dài, không thể giải quyết ngay trong ngày một ngày
hai.
Thực tiễn lịch sử cho thấy: vấn đề Biển Đông không
thể do một vài cường quốc dàn xếp, quyết định, càng không thể được giải quyết
bằng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực. Bởi lẽ, sẽ không thể có hòa bình, ổn định
và phát triển lành mạnh ở Biển Đông nếu những tranh chấp, bất đồng được các bên
hành xử theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Thực tế đã chứng minh, chính những hành
động bất chấp luật pháp quốc tế và quân sự hóa ở Biển Đông gần đây đã làm cho
tình hình trở nên phức tạp, căng thẳng và khó kiểm soát. Cho nên, giải quyết
vấn đề Biển Đông tất yếu phải bằng các cơ chế đàm phán, thương lượng hòa bình
song phương và đa phương trên cơ sở Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Bộ
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Hai là, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hiện nay phải bằng sức mạnh tổng hợp trên cơ sở
luật pháp quốc tế. Kết hợp nội lực và ngoại lực, bằng cả sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và tiếng nói của cộng đồng quốc tế, chứ không thể chỉ dựa
vào việc liên minh quân sự với một vài quốc gia đơn lẻ.
Hơn nữa, trong bối cảnh các nước đều đề cao lợi ích
quốc gia, dân tộc thì hiếm có một “nước phát triển”, một “cường quốc” nào lại
bảo vệ chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc cho quốc gia, dân tộc khác một cách vô tư,
không tính toán.
Do vậy, dựa vào một nước nào đó, cho dù là “nước
phát triển”, “cường quốc” thì không những không giải quyết được vấn đề, mà thậm
chí còn làm trầm trọng, căng thẳng và phức tạp thêm tình hình. Thực tế cho
thấy, tuy là đồng minh của Nhật nhưng lâu nay Mỹ cũng chẳng giúp được
gì cho Nhật Bản trong việc khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Senkaku (Trung
Quốc gọi là Điếu Ngư). Hay như đối với Ucraina, dù được cả Mỹ và Liên
minh châu Âu “bảo trợ” khá toàn diện, nhưng nước này vẫn không thể giành được
bán đảo Crưm trong tranh chấp với Nga.
Ba là, “liên minh” với một nước nào đó để chống nước khác tức là chúng ta đã tự
tạo cho mình thêm một kẻ thù. Càng tai hại hơn nếu đó lại là một quốc gia có
địa chính trị“núi liền núi, sông liền sông”. Điều đó đi ngược lại với truyền
thống đối ngoại giữ nước của dân tộc ta “thêm bạn, bớt thù”. Lịch sử
đã khắc ghi nhiều bài học sâu sắc cho việc tồn tại độc lập bên cạnh một láng
giềng luôn tìm cách “đồng hóa” chúng ta, đó không chỉ là nhờ vào những chiến
công hiển hách chống giặc ngoại xâm, mà còn nhờ vào chính sách ngoại giao mềm
dẻo ngay sau mỗi chiến thắng của các nhà lãnh đạo, nhà quân sự sáng suốt, vì
dân, vì nước.
Mặt khác, trong quan hệ quốc tế đương đại, các
nước, đặc biệt là các nước lớn có xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh
với nhau. Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Nhật Bản... vừa là chủ nợ, vừa
là con nợ, vừa là đối thủ, vừa là đối tác lớn của nhau. Do đó, việc nêu quan
điểm “đi theo” (liên minh với) nước này để chống nước khác nhằm bảo vệ chủ
quyền, biển đảo là ảo tưởng, ấu trĩ, phi khoa học và không thực tế.
Bốn là, quan điểm dựa vào nước này, liên minh với nước khác để bảo vệ chủ quyền
là thể hiện tư tưởng yếu hèn, nhược tiểu. Quan điểm này hoàn toàn trái ngược
với truyền thống tự lực, tự cường của dân tộc ta. Trong trường kỳ lịch
sử: độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là truyền thống, kinh nghiệm, bản
lĩnh, khí phách dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: Không
có gì quý hơn độc lập, tự do; đem sức ta mà tự giải phóng cho ta; tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Xu thế phát triển khách quan của thế giới
đương đại cũng là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển;
các quốc gia, dân tộc đều đề cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường...
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, dựa vào nước khác không những không bảo vệ, không
đòi được chủ quyền, thậm chí còn mất luôn cả quyền độc lập về chính trị, quyền
tự quyết của dân tộc.
Nhận xét