THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đó là nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam về quyền con người. Tuy nhiên, trong thời kỳ đất nước bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lược thì đấu tranh giành độc lập dân tộc được ưu tiên hàng đầu; bởi lẽ, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là tiền đề và điều kiện tiên quyết của quyền con người (QCN). Sau năm 1975, chúng ta có độc lập, thống nhất; Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng bảo đảm QCN về mọi mặt; thế nhưng, do hậu quả của 30 năm chiến tranh tàn phá, kinh tế đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, nên điều kiện kinh tế để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân chưa được như mong muốn. Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một thời kỳ mới của đất nước: thời kỳ Đổi mới - từ đó đến nay đất nước ta có sự phát triển vượt bậc về mọi mặt, trong đó có vấn đề bảo đảm quyền con người.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi quyền kinh tế là hạt nhân của QCN; hơn nữa, trước thời điểm đổi mới, vấn đề cấp bách nhất là phải giải phóng sức sản xuất để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nên trong khi Đảng ta xác định phải đổi mới toàn diện, đã đặt trọng tâm trước hết vào đổi mới kinh tế với mục tiêu vì con người. Theo đó, đường lối phát triển kinh tế của Đảng tập trung ở ba chủ trương lớn: chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Thực hiện các chủ trương đó, Đảng, Nhà nước đã đề ra nhiều chính sách phát triển kinh tế nhằm tăng quyền tự chủ và phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, tạo mọi điều kiện để các tổ chức, cá nhân tự do kinh doanh theo pháp luật và làm giàu chính đáng. Vì vậy, các nguồn lực, nhất là nguồn lực con người được phát huy mạnh mẽ; và đó cũng là nhântố then chốt đảm bảo cho kinh tế Việt Nam liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Điều đáng nói là, sự tăng trưởng kinh tế đó luôn đi đôi với thực hiện tiến bộ, dân chủ và công bằng xã hội, bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng thành quả của công cuộc đổi mới. Điều đó thể hiện tính ưu việt của con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Thực tiễn đã cho thấy, tại một số nước phát triển, tuy có điều kiện kinh tế hon nước ta, song QCN của một bộ phận dân nghèo không được bảo đảm, nạn thất nghiệp, phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo... vẫn tồn tại gay gắt.
Cùng với bảo đảm QCN trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm bảo đảm QCN về chính trị. Đó là bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin; quyền tự do hội họp, lập hội; quyền tự do tín ngưỡng; quyền bình đẳng nam nữ, v.v. Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân - một nhà nước mà ở đó QCN được tôn trọng và bảo vệ. Những năm gần đây, việc truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn, việc bình luận, đưa tin của báo chí về các hoạt động của Quốc hội đã phản ánh trung thực bầu không khí dân chủ trong đời sống chính trị ở Việt Nam.
Trong các kỳ đại hội của Đảng, nhất là các kỳ đại hội gần đây, Dự thảo Báo cáo Chính trị trước khi trình đại hội được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhân dân đã đóng góp hàng trăm nghìn ý kiến vào Dự thảo; Đảng ta luôn trân trọng, nghiên cứu và ghi nhận các ý kiến đó, kể cả những ý kiến chưa phù hợp, nhưng không trái với lợi ích của dân tộc. Mặt khác, việc bảo đảm quyền chính trị của người dân còn thể hiện ở chỗ: Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội, góp phần giúp cho Đảng và Nhà nước có đầy đủ cơ sở để hoạch định đường lối, chính sách, cũng như đưa đường lối, chính sách vào cuộc sống.
Trong thời kỳ Đổi mới, ngoài các tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân (Phật giáo, Thiên chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo,...), Nhà nước Việt Nam còn xét và công nhận rất nhiều hệ phái các tôn giáo khác. Mặt khác, Đảng và Nhà nước ta còn hỗ trợ, ủng hộ việc trùng tu, xây mới nơi thờ tự, sinh hoạt tôn giáo; triển khai nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh tại các vùng có đông đồng bào tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào có đạo. Là một quốc gia đa dân tộc, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để duy trì tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc; đồng thời, chống những thái độ, hành động biểu hiện sự kỳ thị và tư tưởng dân tộc hẹp hòi. Trong tiến trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận ưu tiên trong hệ thống chính sách phát triển...
Trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, việc bảo đảm QCN tiếp tục đạt được những tiến bộ mới. Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện chủ trương đó, Nhà nước đề ra nhiều chính sách về bảo tồn, phát triển các giá trị truyền thống, các sản phẩm văn hóa; đồng thòi, ban hành nhiều bộ luật liên quan đến việc bảo đảm QCN trong lĩnh vực văn hóa. Vì vậy, đời sống văn hóa ở cơ sở có bước phát triển, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Đặc biệt, nhờ có sự hỗ trợ của Nhà nước, tiếng nói, chữ viết và những nét văn hóa đặc sắc của nhiều đồng bào thiểu số được khôi phục; nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống có điều kiện giao lưu quốc tế, góp phần quảng bá nét đẹp văn hóa đậm bản sắc Việt Nam ra thế giới. Giáo dục được Đảng ta xác định là "quốc sách hàng đầu" và trên thực tế, giáo dục đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, chất lượng, hình thức... và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; trong hệ thống giáo dục quốc dân, việc xây dựng xã hội học tập từ nhiều nguồn lực cũng đã góp phần bảo đảm tốt hom quyền được học tập của quần chúng nhân dân.
Rõ ràng, công cuộc đổi mới đã làm thay đổi cuộc sống của hàng triệu người, đồng nghĩa với việc QCN ở Việt Nam được bảo đảm tốt là điều không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, việc bảo đảm QCN ở Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề cần quan tâm như: Chính sách phân phối và điều tiết thu nhập giữa các nhóm xã hội chưa phù hợp; mức sống của một bộ phận dân cư, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp; tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền vẫn còn xảy ra; việc đầu tư phát triển chưa đi đôi với bảo vệ môi trường đã ảnh hưởng đến quyền được sống trong môi trường sạch của nhân dân....
Tuy nhiên, những hạn chế nói trên không làm giảm giá trị bức tranh với nhiều gam màu tươi sáng về bảo đảm QCN ở Việt Nam; bởi quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo đảm QCN là nhất quán, rõ ràng và xuyên suốt; những thành tựu cụ thể nêu trên là thực tiễn sinh động được cả thế giới thừa nhận. Do vậy, việc các thế lực thù địch luôn sử dụng chiêu bài “nhân quyền” để vu cáo ta vi phạm QCN chỉ là những tiếng nói lạc lõng.
                                                                                                               NĐS

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LIỆU NGÀY NAY GIAI CẤP CÔNG NHÂN CÓ CÒN BỊ BÓC LỘT?

HIỂU ĐÚNG NGHĨA CỤM TỪ “DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH”

BỆNH KINH NGHIỆM, GIÁO ĐIỀU VÀ CÁCH KHẮC PHỤC