BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CÓ PHẢI CHĂNG ĐÃ THAY ĐỔI!
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, xã hội loài người đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại. Lợi dụng vấn đề này, một số phần tử lớn tiếng rêu rao rằng: Chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất nhờ việc ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ vào trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó, trong phương thức sản xuất tư bản ngày nay không còn hiện tượng người bóc lột người, xã hội tư bản là xã hội tiến bộ nhất trong lịch sự nhân loại mà loài người cần hướng đến. Vậy thực chất bản chất của chủ nghĩa tư bản có thay đổi không?
Chúng ta phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản ngày
nay đã có những thành tựu nhất định về kinh tế, khoa học – công nghệ, giáo dục,
y tế và môi trường và còn khả năng phát triển.
C.Mác và Ăng-ghen đã chỉ rõ từ
khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã cho con người thấy tính ưu việt của nó.
Theo C.Mác, Ăng ghen, đó là một bước tiến vĩ đại về phía trước trên những con
đường phát triển của xã hội loài người.Trải qua quá trình phát triển, chủ nghĩa
tư bản ngày nay đã có những bước phát triển mới. Phương thức sản xuất này vẫn
tỏ ra vẫn còn sức sống nhất định, mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản hiện
không quyết liệt đến mức dẫn tới tình thế cách mạng. Bên cạnh đó, chúng ta thật
sự “chưa đánh giá hết khả năng co giãn của cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa,
cũng như tính linh hoạt của những người kinh doanh tư bản biết di động, tiến
thoái, đồng thời vẫn còn giữ được vị trí của họ”[1]. Thấy rõ được những sự biến
đổi mới của chủ nghĩa tư bản, Đảng ta đã nhận định “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản
còn tiềm năng phát triển”.
Vậy phải chăng những biến đổi mới, những biểu hiện mới
của chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với việc quay trở lại thời kỳ quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa vẫn đang phù hợp với lực lượng sản xuất hiện đại?
Theo Lênin, khi nghiên cứu CNTB trong giai đoạn độc
quyền, chủ nghĩa tư bản có khuynh hướng “phát triển vô cùng nhanh” nổi trội hơn
so với khuynh hướng ngừng trệ, thối nát vốn có của nó. Lênin cũng chỉ ra, chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn còn nhiều tiền năng phát triển, song đó là
sự phát triển trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản và tiềm năng phát triển đó không
phải là vô hạn[2]. Càng phát triển, mâu thuẫn càng sâu sắc phức tạp.
Đảng ta chỉ ra “Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ
nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không
giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc”. Nếu như dưới các chế độ trước
chủ nghĩa tư bản, một khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản
xuất thì nó “kìm hãm” sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mặc dù không thuận
lợi, song lực lượng sản xuất mới với công nghệ mới vẫn ra đời trong lòng xã hội
phong kiến nhưng chỉ phát triển đột biến, bùng nổ sau khi nó phá tan quan hệ
sản xuất cũ và kiến trúc thượng tầng cũ. Dưới chủ nghĩa tư bản, khi đã mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất vẫn có thời kỳ
phát triển bùng nổ, mặc dù phát triển xen kẽ với khủng hoảng, trì trệ, phát
triển dẫn đến những hậu quả kinh tế - xã hội chống lại bản thân sự phát triển
như phân hóa giàu nghèo, phá hoại môi trường sinh thái…Quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa có tính linh hoạt cao hơn nhiều so với các quan hệ sản xuất trước đó.
Đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết trong Tuyên ngôn Đảng cộng
sản “Giai cấp tư sản không thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hóa
công cụ sản xuất, do đó cách mạng hóa những quan hệ sản xuất. Trái lại đối với
tất cả giai cấp công nghiệp trước kia thì việc duy trì nguyên vẹn phương thức
sản xuất cũ là điều kiện kiên quyết cho sự tồn tại của họ. Sự đảo lộn liên tiếp
của sản xuất, sự rung chuyển không ngừng trong tất cả các quan hệ xã hội…làm cho
thời đại tư sản khác với tất cả các thời đại trước”[3]. Vì vậy, ngay khi đã mâu
thuẫn sâu sắc với lực lượng sản xuất nó vẫn chưa hết khả năng tự “co dãn”, tự
điều chỉnh để thích nghi với lực lượng sản xuất mới, qua đó thúc đẩy lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển trong thời kỳ nhất định.
Tuy nhiên, cho dù có điều chỉnh như thế nào đi nữa,
cho dù có khoác trên mình những “tấm áo choàng lộng lẫy” như thế nào đi nữa thì
bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề thay đổi, đúng như nhận định của
Đảng ta “về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”. Sự áp bức,
bất công đó thông qua sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, của chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Sự thống trị đó không chỉ đóng khung trong
từng quốc gia, dân tộc mà được quốc tế hóa hơn bao giờ hết. Sự áp bức, bóc lột
được che đậy dưới nhiều hình thức khác nhau và ngày càng mang tính chất tinh vi
hơn trước; hình thức bóc lột cũng luôn có sự thay đổi dựa trên việc áp dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Sự bóc lột vượt khỏi
biên giới quốc gia và được triển khai trên phạm vi quốc tế thông qua nhiều hình
thức.
Những giới hạn không thể vượt qua trên cho thấy, chủ
nghĩa tư bản hiện đại vẫn đang và sẽ tiếp tục phải đổi mặt với những nguy cơ
của khủng hoảng về kinh tế, xã hội, chính trị thậm trí nguy cơ một cuộc khủng
hoảng toàn diện mới có thể xuất hiện. Do vậy, Đảng ta nhận định “Chính sự vận
động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ
quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”. Như vậy có thể thấy rằng, chủ nghĩa
tư bản hiện đại trong khi chưa phát triển đến giai đoạn diệt vong gần kề nó
đang tiếp tục tiến triển một cách khách quan đến một xã hội khác cao hơn, bất
chấp ý nguyện chủ quan của bất cứ lực lượng xã hội nào và do đó trong lòng nó
đang chín muồi dần không chỉ những tiền đề vật chất, kỹ thuật mà cả những mầm
mống, những yếu tố nhiều mặt, những điều kiện ngày càng đầy đủ hơn cho sự ra
đời xã hội mới sau chủ nghĩa tư bản.
[1] http://www.vov.vn/ “Nhận thức về chủ nghĩa tư bản
hiện đại” bài viết của GS, TS Vũ Văn Hiền;
[2] GS, TS Nguyễn Ngọc Long, “Chủ nghĩa Mác-Lênin vơi vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hộ
hiện thực”, Nxb CTQG, H-2009, tr 374;
[3] C.Mác và Ăng ghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H-1994, T4, tr 600-601.
Nhận xét