QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM LÀ ĐIỀU KHÔNG THỂ BỊ XUYÊN TẠC
Hiện nay, trong quá trình chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch tập trung vào chống phá Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Trong đó, tự do ngôn luận, tự do báo chí là một trong những mục tiêu xuyên tạc, bôi nhọ của chúng.
Thực ra, việc các thế lực thù địch lợi
dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để tấn công vào Đảng ta cũng như hệ tư
tưởng của Việt Nam không phải là vấn đề mới. Nhiều hãng thông tấn, báo chí và
trang web như Báo cáo nhân quyền thế giới hàng năm, Nghị quyết của Nghị viện
EU, Báo cáo thường niên, thông cáo báo chí của các tổ chức quốc tế; Báo cáo của
tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF)… đã và đang “rêu rao” rằng: ở Việt Nam
“Không có tự do ngôn luận, tự do báo chí”; “Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt
quyền tự do báo chí, tự do internet”; Việt Nam “bắt bớ nhiều blogger”... Họ cố
tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình
hình tự do báo chí để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp
uy tín nước ta trên trường quốc tế, cũng như hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trong đó, họ xuyên tạc khái niệm tự do báo chí; viện dẫn các
quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về tự do báo chí, nhưng cố
tình lờ đi những quy định và điều khoản nghĩa vụ kèm theo rồi tán phát qua
internet, mạng xã hội làm cho nhiều người hiểu lầm rằng “tự do báo chí” là một
quyền tuyệt đối, không có bất cứ một hạn chế nào. Trên lĩnh vực báo chí, một số
đối tượng còn thành lập các câu lạc bộ, các diễn đàn trên mạng dưới chiêu bài
“tự do ngôn luận, tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức
chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Hơn
ai hết, chúng ta cần hiểu rằng: Theo nghĩa thông thường, quyền tự do ngôn luận
báo chí được hiểu đó là một quyền con người, quyền công dân. Về nội dung, đó là
quyền của tất cả mọi người trong việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông
tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng miệng, bằng bản viết, in,
hoặc dưới hình thức nghệ thuật… Điều này có nghĩa là mọi người đều có quyền giữ và trình bày quan điểm của mình mà không bị
ai can thiệp. Tuy nhiên, về việc thực hiện những quyền này phải được kèm theo
những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể dẫn tới một số hạn chế
nhất định. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần
thiết để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác, bảo vệ an ninh quốc
gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng… Như vậy, một
mặt mọi người đều có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, mặt khác, việc thực
thi những quyền này được hạn chế trong những khuôn khổ nhất định để đảm bảo
không xâm phạm đến những giá trị khác, không vi phạm đến quyền và uy tín cá
nhân của người khác; không được làm tổn hại đến an ninh quốc gia, trật tự công
cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng, và cần hiểu đầy đủ khái niệm tự do
ngôn luận, tự do báo chí cả về nội dung tư tưởng, chính trị và văn hóa. Rõ
ràng, điều này là phổ quát đối với toàn nhân loại. Không một quốc gia nào trên
thế giới có thể bảo đảm được cái gọi là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
tuyệt đối.
Hiện nay, pháp luật về báo chí của Nhà
nước ta đã đầy đủ với tư duy mới về quyền con người, bảo đảm đầy đủ quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, bao gồm cả tự do internet và mạng xã hội. Luật Báo
chí của Việt Nam (2016) quy định: Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; có nhiệm vụ,
quyền hạn: tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh và hướng dẫn dư
luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân. Luật
báo chí cũng có những quy định cấm báo chí không được đăng, phát thông tin
chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xuyên tạc, phỉ báng, phủ
nhận chính quyền nhân dân; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, chia rẽ giữa
các tầng lớp nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền, lực lượng vũ trang; gây
hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam; chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn
giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn
giáo; phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế; đưa thông tin sai sự
thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân
phẩm của cá nhân. Mặt khác, bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, Nhà nước Việt Nam đã và đang tập trung xử lý các đối tượng lợi dụng
các phương tiện này để phục vụ cho mưu đồ chống phá, vi phạm quyền và lợi ích
của Nhà nước và công dân theo pháp luật Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp
với luật pháp quốc tế.
Nhận xét