VẠCH TRẦN BẢN CHẤT PHẢN ĐỘNG CỦA LUẬN ĐIỆU “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG ĐẠI DIỆN CHO LỢI ÍCH QUỐC GIA - DÂN TỘC”
Thời gian qua, các thế lực thù địch phản động, cơ hội chính trị đã tung nhiều thông tin xuyên tạc chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, như chúng lu loa rằng: Đảng Cộng sản đã mạo nhận là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động; rằng trong lịch sử, không có khi nào Đảng Cộng sản phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà cộng sản chỉ lợi dụng công nhân và nhân dân lao động để phục vụ quyền lợi của Đảng Cộng sản... Hiện nay, lợi dụng một số hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhiều kẻ đã rêu rao: Đảng không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc. Khi Đảng ta nhận rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguy cơ trong Đảng và đẩy mạnh công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, chúng lại cố tình phủ nhận những nỗ lực và những thành quả đạt được, cho rằng những hành động đó không phải vì lợi ích dân tộc mà chỉ nhằm “che mắt thế gian”... Từ đó, chúng cho rằng, lực lượng nào lãnh đạo không quan trọng, miễn là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết! Đây là quan điểm hoàn toàn sai trái, phản động, hòng tách rời Đảng với dân tộc, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội.
Chúng ta khẳng định được điều đó là vì: ở Việt Nam, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ
trí tuệ, bản lĩnh để lãnh đạo đất nước và cũng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới
thực sự vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong lịch sử, đã từng xuất hiện những lực
lượng muốn vươn lên vị trí lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhưng hoặc là không đủ
khả năng, hoặc là những kẻ cơ hội. Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản xuất hiện thêm
hai đảng là Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội
(Việt cách) và nhiều tổ chức, đảng phái chính trị khác. Tuy nhiên, lực lượng đại
diện cho ý chí, khát vọng, lợi ích của dân tộc, đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo công
cuộc cách mạng dân tộc trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” chỉ có Đảng Cộng
sản Việt Nam, còn các đảng phái khác không đại diện cho lợi ích của nhân dân và
dân tộc. Khi quân Trung Hoa Dân quốc rời khỏi Việt Nam, hai đảng Việt quốc và
Việt cách cũng rút theo.
Như vậy, những đảng phái không đứng về
phía nhân dân, không thực sự mang lại lợi ích chính đáng cho nhân dân đã bị
chính lịch sử và nhân dân loại bỏ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử, của nhân dân. Sự lựa chọn
đó là hoàn toàn đúng đắn.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng
đã chứng minh, kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn đặt lợi ích quốc
gia - dân tộc lên trên hết, đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, khi
phát xít Nhật vào Đông Dương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng “Trong lúc
này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”, lợi ích của giai cấp, của bộ
phận phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Trở thành Ðảng cầm
quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn được Ðảng đặt lên hàng đầu, tất cả vì đoàn
kết dân tộc, giữ vững nền độc lập vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong suốt
hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, những người cộng sản luôn đi đầu trong sự
nghiệp đấu tranh và chấp nhận hy sinh vì Tổ quốc.
Cũng vì luôn đặt lợi ích quốc gia -
dân tộc lên trên hết, trước hết, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận sai lầm, khuyết
điểm để sửa sai. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ với bút danh Trí Cường đã
viết tác phẩm Tự chỉ trích, một mẫu mực về đấu tranh tự phê bình và phê bình,
làm rõ những khuyết điểm của Đảng khi không đoàn kết, không nhận được sự ủng hộ
của đông đảo nhân dân trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu, Hội đồng Quản hạt ở
Nam Kỳ... Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Sửa đổi lối
làm việc với tinh thần tự phê bình nghiêm túc. Đến Đại hội VI, Đảng đã tự phê
bình và thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, từ đó đưa ra đường lối đổi
mới. Tinh thần thẳng thắn này tiếp tục được thể hiện trong Nghị quyết Trung
ương sáu (lần hai) Khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI về một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII, XIII về
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ.
Sau khi đất nước thống nhất, bước sang
giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, lợi ích quốc gia - dân tộc vẫn luôn là nhiệm
vụ trọng tâm được Đảng nhận thức sâu sắc qua các kỳ Đại hội, nhất là thời kỳ đổi
mới. Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (tháng 7-2003) chỉ rõ: “Kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”. Đại hội XIII
của Đảng khẳng định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, cùng có lợi”.
Hiện nay, cuộc chiến chống tham nhũng
với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” đã
khẳng định, tất cả những cán bộ đảng viên chỉ vì lợi ích cá nhân, vì lợi ích
nhóm mà bỏ quên và làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân, của đất nước, đều bị
nghiêm trị. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí đã đạt được kết quả tích cực. Các cấp ủy đã kiểm tra gần
265.000 tổ chức đảng viên và trên 1,1 triệu đảng viên. Trong đó, đã thi hành kỷ
luật hơn 1.300 tổ chức đảng và gần 70.000 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật
10 tổ chức đảng, 229 đảng viên.
Trong cuộc chiến chống đại dịch
Covid-19, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn hành động vì lợi ích quốc gia, dân tộc
và hạnh phúc của nhân dân. Cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt, chung
sức, đồng lòng, khoanh vùng, kiểm soát, đón người Việt từ vùng dịch về, hỗ trợ
doanh nghiệp, những đối tượng yếu thế trong xã hội... Tổ chức Y tế thế giới,
nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia, báo chí các nước ghi nhận và đánh giá cao kết
quả phòng, chống dịch của Việt Nam. Nhờ những thành tựu đó, niềm tin của nhân
dân dành cho Đảng đã tăng lên rất nhiều, cho thấy sự ghi nhận của nhân dân đối
với sự nỗ lực, tinh thần vì dân, vì nước của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nhận xét