CÓ PHẢI NGÀY NAY GIAI CÂP CÔNG NHÂN ĐÃ MẤT VAI TRÒ SỨ MỆNH LỊCH SỬ, CHỈ CÓ TRÍ THỨC MỚI LÀ LỰC LƯỢNG TIÊN PHONG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG
Học thuyết C. Mác - Ph. Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế - xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, về những mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết ấy chứng minh rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan, C. Mác - Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”[1]. Nhận định về cống hiến của chủ nghĩa Mác, V. I. Lênin nhấn mạnh: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”[2]. Từ trước đến nay, trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề chủ yếu này luôn gặp phải sự chống phá quyết liệt của các thế lực chống cộng với nhiều màu sắc khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu, người ta lại thấy không ít những luận thuyết, quan điểm khác nhau hòa
trong một dàn “hợp xướng” tiến công chủ nghĩa Mác - Lênin, hy vọng có thể hạ bệ
và thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin. Những luận thuyết phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân lại được nở rộ ở nhiều nơi. Các lực lượng chống cộng lập
luận rằng, C. Mác đã gắn cho giai cấp công nhân cái sứ mệnh mà nó không có chỉ
bởi vì ông thương đó là giai cấp nghèo khổ; rằng, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi
về chất, đã trở thành “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, nhà nước tư bản đã là “nhà
nước phúc lợi chung”, nó không còn dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê nữa;
rằng, công nhân ở các nước tư bản không còn bị bóc lột nữa, địa vị của họ đã có
sự thay đổi căn bản, cho nên không còn sứ mệnh lịch sử nữa. Theo họ, thời
đại ngày nay là thời đại của nền “văn minh trí tuệ”, của “kinh tế tri thức”, do
đó trí thức mới là lực lượng tiền phong, có vai trò lãnh đạo cách mạng. Thực
chất của những quan điểm trên là sự biện hộ cho địa vị thống trị và bóc lột của
giai cấp tư sản, biện hộ cho sự tồn tại “vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản trên
cơ sở phủ nhận vai trò lịch sử khách quan của giai cấp công nhân, phủ nhận tính
tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Để làm rõ vấn đề này
cần phải dựa trên cơ sở luận chứng địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công
nhân hiện nay gắn với việc làm sáng tỏ bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Phương pháp luận
trong xem xét vai trò lịch sử của một giai cấp là phải dựa trên cơ sở địa vị
kinh tế - xã hội của giai cấp đó trong xã hội, chứ không phải xuất phát từ ý
muốn chủ quan của bất kỳ một cá nhân hoặc một lực lượng xã hội nào. Trong lịch
sử, chế độ tư bản chủ nghĩa đã từng chiến thắng chế độ phong kiến bởi vì giai
cấp tư sản đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, đại diện cho phương thức
sản xuất mới, dựa trên nền đại công nghiệp, tiến bộ hơn hẳn phương thức sản
xuất lạc hậu của chế độ phong kiến. Đối với giai cấp công nhân, “vấn đề là ở
chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của
bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”[3].
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không
phải giai cấp này là giai cấp nghèo khổ, mà điều quyết định là do địa vị kinh
tế - xã hội của chính nó. Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất
công nghiệp hiện đại, là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư
bản. Với tính cách như vậy, giai cấp công nhân là lực lượng quyết định phá vỡ
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công
nhân đại biểu cho sự tiến hoá tất yếu của lịch sử, là người duy nhất có khả
năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong xã hội tư bản, các giai cấp khác đều suy tàn
và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; trái lại, giai cấp
công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, được nền công nghiệp hiện đại
rèn luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị
giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với
giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng, triệt để nhất
chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách
quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng
toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy,
họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình. Địa vị kinh tế -
xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cách mạng, triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Đó là khả năng
đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử
của mình, khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó
là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là
khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân
tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể
giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa
quốc tế vô sản.
Vì vậy, lấy sự
nghèo khổ làm cơ sở để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một
lập luận phản khoa học và là mưu đồ hòng xuyên tạc chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Ngày nay, kẻ thù
của chủ nghĩa xã hội và một số người cơ hội, xét lại đang phủ nhận học thuyết
Mác- Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo họ giai cấp công
nhân ngày nay đã “teo đi”, đã “tan biến” vào các giai tầng xã hội khác; địa vị
kinh tế - xã hội của giai câp công nhân đã thay đổi nhiều, giai cấp này đã
“trung lưu hoá”, thậm chí trở thành “nhà tư bản” khi đã có cổ phiếu trong các
xí nghiệp, công ty. Thực tế chứng minh rằng, quá trình tái sản xuất tư bản chủ
nghĩa dù có mở rộng và hiện đại hoá đến đâu, những hình thức của nó có thay đổi
thế nào chăng nữa thì nó vẫn không ngừng tái sinh ra quan hệ tư bản chủ nghĩa.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng chế độ tư bản
đang diễn ra hết sức gay gắt. Giai cấp tư sản đã và đang tìm mọi cách để điều
chỉnh các quan hệ tư bản chủ nghĩa hòng cứu vãn chế độ thống trị của chúng.
Chúng có thể đạt được một số thành tựu và kết quả nào đấy nhưng vẫn không sao
khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản. Ở nơi này hay nơi khác, nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn còn khả năng phát triển, nhưng phải thường xuyên
đương đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất
nghiệp thường xuyên không tránh khỏi của hàng chục triệu người. Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách hết sức nặng
nề, nhưng bức tranh toàn cảnh của sự phát triển lực lượng sản xuất thế giới vẫn
đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhưng nó vẫn
tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử. Đặc điểm lớn nhất của
thời đại ngày nay là giai cấp công nhân đã, đang và sẽ vươn lên nắm quyền lực
nhà nước bằng nhiều con đưòng khác nhau. Bởi lẽ, nó là giai cấp duy nhất đại
diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến. Giai
cấp công nhân là người đại diện cho lợi ích và quyền lực của nhân dân, của nhân
loại tiến bộ.
Trong các nước
đang phát triển, giai cấp công nhân đang không ngừng tăng nhanh cùng với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Tuy nhiên, điều quyết định
việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chủ yếu không phải là số
lượng, mặc dù số lượng là yếu tố cần thiết. Trên thực tế, sức mạnh của giai cấp
công nhân lớn hơn nhiều so với số lượng của nó nếu giai cấp công nhân thống
nhất được lực lượng của chính giai cấp mình và thực hiện được sự liên minh chặt
chẽ với quần chúng lao động bị áp bức.
Phải chăng, hiện
nay trong các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân không còn bị bóc lột
như trước, đã “trung lưu hoá” và có cổ phần trong xí nghiệp, cho nên giai cấp
công nhân không có tinh thần cách mạng như trước, không còn có thể đóng vai trò
lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản?
Đúng là hiện nay,
việc thực hiện cổ phần hóa ở các nước tư bản phát triển đang diễn ra với quy mô
ngày càng rộng khắp. Ngưòi dân hễ cố tiền tích luỹ là có thể mua cổ phiếu ở xí
nghiệp, công ty cổ phần nào đó với hy vọng thu lợi tức cổ phần và lãi vốn. Tuy
nhiên, cần khẳng định rằng, việc bán cổ phiếu cho công nhân không những không
động chạm đến quyền lợi của giới chủ, mà trái lại càng làm tăng thêm quyền lực
kinh tế cho bọn tư bản. Một chủ tư bản không cần một số lượng tư bản lớn cũng
có thể chi phối cả công ty, hoặc nhiều công ty trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh hết sức lớn. Bán cổ phiếu cho ngưòi lao động chỉ diễn ra trong chừng mực
không tổn hại đến quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đến lợi ích của giới chủ.
Khi đã có cổ phiếu, dù người công nhân có được những quyền lợi nhất định gắn
với tình hình sản xuất của công ty và lợi tức do kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh đem lại, nhưng thực chất nguồn lợi nhuận ấy chẳng qua là một phần
giá trị thặng dư do chính công nhân làm ra, chứ không phải bớt đi giá trị thặng
dư mà giới chủ tư bản đã bỏ túi. Vậy là, người công nhân không phải đã trở
thành “nhà tư bản” theo cái cách người ta nói, mà là “thành nhà tư bản đối với
chính mình”. Như vậy, công nhân hiện nay dù có cổ phiếu với giá trị cao hơn
trước cũng chẳng vì thế mà thay đổi địa vị làm thuê và bị bóc lột trong xã hộỉ
tư bản. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương pháp hữu hiệu cột chật người lao động
và bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. Hy vọng thay đổi địa vị người lao động
trở thành người chủ thật sự ở các nước tư bản chủ nghĩa, do đó chỉ là ảo tưởng,
hoặc đó là hành động tự lừa đối mà thôi. Việc mua bán cổ phiếu ở các nước tư
bản đã tạo nên cái gọi là “hiệu ứng của cải”, làm cho tình hình mua đi bán lại
các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán ngày càng trở nên nhộn nhịp, làm cho
tư bản giả sẽ ngày càng tăng lên so với tư bản thực tế và càng nói lên tính
chất ăn bám của chủ nghĩa tư bản độc quyền, chứ chẳng phải chủ nghĩa tư bản đã
là “chủ nghĩa tư bản nhân dân” như người ta cố tình tô vẽ.
Giai cấp công nhân nếu đã trở nên “trung lưu hoá”, thì cái sự “trung lưu
hoá” ấy là sự phản ánh mức sống của họ trong điều kiện mới chứ không phải làm
thay đổi bản chất cách mạng của giai cấp công nhân; đó là do tiến bộ chung của
sự phát triển xã hội và là kết quả đấu tranh, liên tục, bền bỉ của chính giai
cấp công nhân trong đấu tranh chống giai cấp tư sản suốt nhiều thế kỷ qua. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, cũng như sự
biến đổi cơ cấu xã hội, mức sống cao về vật chất, tinh thần của giai cấp công
nhân làm cho diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại trong xã hội tư bản không
còn giống như những mô tả của C. Mác trong thế kỷ XIX. Đó là sự thật. Thế
nhưng, từ những biến đổi đó mà đi đến kết luận giai cấp công nhân không còn bản
chất cách mạng, không thể giữ vai trò lãnh đạo, thực hiện sứ mệnh lịch sử nữa
thì đó là sai lầm cả về chính trị và khoa học.
Lại có quan điểm cho rằng, luận điểm của C. Mác về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân trước đây có thể đúng nhưng không còn đúng trong thời đại ngày
nay. Theo họ, thời đại ngày nay là thời đại của nền “văn minh trí tuệ”, của
“kinh tế tri thức”, do đó, trí thức mới là lực lượng tiền phong, có vai trò
lãnh đạo cách mạng!
Đúng là trí thức
có vai trò quan trọng trong mọi thời đại. Trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới,
vai trò trí thức ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song, trí thức không
thể đóng vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân. Bởi lẽ, trong xã hội,
trí thức chỉ là một tầng lớp xã hội đặc biệt và không thuần nhất. Nó không đại
biểu cho một phương thức sản xuất độc lập, không phải là một lực lượng kinh tế,
chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Do đó, trí thức
không có hệ tư tưởng riêng. Nó phải phục tùng và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của
giai cấp nào thống trị xã hội. Do địa vị kinh tế - xã hội của nó, trí thức
không thể là người lãnh đạo cách mạng; mặc dù tất cả các giai cấp thống trị
trong lịch sử đều cần đến trí thức và đào tạo ra một đội ngũ trí thức của mình
để thực hiện vai trò của nó đối với xã hội. Mặt khác, trí thức không có lợi ích
đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, trí thức
cũng là người làm thuê và bị bóc lột, nhưng lại là tầng lớp làm thuê đặc biệt,
được giai cấp tư sản đào tạo, sử dụng và có một bộ phận được chế độ tư bản ưu
đãi. Trí thức không phải là tầng lớp xã hội có tinh thần cách mạng triệt để như
giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Thực tế lịch sử
cho thấy chưa bao giờ có một tầng lớp trí thức nào có thể thay thế một giai cấp
để lãnh đạo một cuộc cách mạng xã hội nhằm thay thế chế độ này bằng một chế độ
xã hội khác. Trí thức bao giờ cũng là trí thức của một giai cấp nhất định và
thường là của giai cấp thống trị xã hội.
Cần nhắc lại luận
điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Giai cấp tư
sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, mà nó còn tạo ra nhũng người
sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, nhũng người vô sản”[4]. Luận điểm nổi tiếng đó càng trở nên có ý
nghĩa trong điều kiện lịch sử mới. Chủ nghĩa tư bản đang điều chỉnh là đang làm
cái việc rèn giũa vũ khí sẽ giết mình thêm sắc nhọn hơn; những người đào huyệt
chôn chủ nghĩa tư bản - giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân sẽ ngày càng nhận
thức rõ hơn sứ mệnh lịch sử của mình là loại bỏ chủ nghĩa tư bản ra khỏi đời
sống xã hội, xây dựng chủ nghĩa cộng sản văn minh; xác định rõ hơn con đường,
biện pháp để thực hiện sứ mệnh lịch sử vĩ đại đó.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đối với những người
cộng sản, giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trên thế giới quả là một thực
tế nghiệt ngã và đau xót. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội
bị “tiêu vong”, giai cấp công nhân đã “mất vai trò lịch sử”; cũng không làm mất
đi ý chí phấn đấu và niềm tin vào tương lai xã hội chủ nghĩa của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Trái lại, giai cấp công nhân có thêm
những bài học quý giá về những vấn đề cơ bản của cách mạng, bài học sâu sắc về
“cách mạng phải biết tự bảo vệ”, càng nhận thức rõ hơn tính chất quyết liệt,
gay go của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong thời đại ngày nay,
càng hiểu rõ hơn những bước thăng trầm, những khúc quanh trên con đường thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình./.
ĐINHBINH
Nhận xét