PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM SAI TRÁI VỀ “VẤN ĐỀ ĐỒNG HÓA DÂN TỘC” Ở VIỆT NAM
Việt Nam là một
quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc chung sống. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, tạo nên một dân tộc Việt Nam thống nhất. Các dân tộc phân bố
từ Bắc đến Nam, từ đồng bằng đến miền núi, cư trú xen kẽ nhau, không có dân tộc
nào tách riêng theo vùng lãnh thổ. Yếu tố đó nói lên sự hòa hợp của cộng đồng
các dân tộc đã có từ lâu đời và đã trở thành đặc điểm lịch sử, văn hóa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu
biết lẫn nhau, tăng cường đoàn kết giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Tuy nhiên, các
thế lực thù địch lợi dụng các công ước, điều ước quốc tế liên quan tới vấn đề
dân tộc mà Việt Nam tham gia, ký kết để kích động, xuyên tạc, đưa ra luận điệu
“Nhà nước Việt Nam đồng hóa dân tộc”. Mặt khác, các đối tượng thù địch còn lợi
dụng và khai thác các nội dung liên quan đến đất đai, phong tục tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo để đưa ra các yêu sách, ngăn cản quá trình phát triển kinh tế
- xã hội ở các tỉnh miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số cư trú, sinh sống...
với các luận điệu phản động, các thế lực thù địch đã đánh đồng giữa quyền tự
quyết của một dân tộc với quyền tự quyết của một quốc gia, vu cáo Việt Nam cưỡng
bức đồng hóa dân tộc hòng lợi dụng một số khuyết điểm, thiếu sót trong chính
sách dân tộc ở cơ sở để thực hiện âm mưu tuyên truyền, kích động một bộ phận đồng
bào dân tộc đòi li khai, đòi quyền tự trị, tự quyết, gây mất ổn định an ninh,
trật tự xã hội.
Thực chất, Đảng,
Nhà nước Việt Nam không có chủ trương, chính sách đồng hóa dân tộc.
Tại điều 5 Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và Hiến pháp sửa đổi năm
2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ
thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát
triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng
phát triển đất nước.
Nhà nước Việt
Nam chủ trương xây dựng nền văn hóa thống nhất, đa dạng trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc,
kết hợp giữ truyền thống và hiện đại trong xu thế giao lưu, hội nhập và phát
triển.
Như vậy, Nhà
nước Việt Nam không có chủ trương, chính sách đồng hóa dân tộc. Ở Việt Nam, từ
khi có nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945 đến nay không có hiện tượng
cưỡng bức đồng hóa dân tộc. trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước,
tạo nên một dân tộc đoàn kết, thống nhất. tuy có sự gia thoa văn hóa (ngôn ngữ,
trang phục, phong tục tập quán...) trong đời sống kinh tế - xã hội, nhưng mỗi
dân tộc thiểu số trong 53 dân tộc thiểu số Việt Nam vẫn giữ được bản sắc riêng
của mình mà không có một dân tộc nào bị đồng hóa với dân tộc khác.
Bên cạnh đó, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách cụ thể trong việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc của từng dân tộc nhằm hạn chế quá trình đồng hóa
dân tộc tự nhiên.
Tại điều 13
Nghị định số 05/2011/CĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc,
quy định chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa như sau: Hỗ trợ việc sưu tầm,
nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam; hỗ trợ việc giữ
gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc có chữ viết. Các dân tộc thiểu số có
trách nhiệm giữ gìn văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ viết của dân tộc
mình phù hợp với quy định của pháp luật; xây dựng chương trình mục tiêu quốc
gia để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu
tư, giữ gìn, bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng; đồng
bào thiểu số được hưởng ưu đãi hưởng thụ văn hóa; hỗ trợ xây dựng, khai thác sử
dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc hiểu
số; bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc
thiểu số, định kỳ tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao dân tộc theo từng khu vực
hoặc theo từng dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngày
27/01/2011, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã có quyết định số 1270/2011/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm
2020”, thể hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam trong sự nghiệp bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.
Trong những
năm qua chúng ta đã khôi phục các lễ hội truyền thống, tổ chức Ngày hội văn
hóa-nghệ thuật, thể thao khu vực, thi trang phục truyền thống các dân tộc Việt
Nam, nhiều di sản văn hóa dân tộc được công nhận là di sản cấp quốc gia; cấp quốc
tế: “không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”, “Thánh địa Mỹ Sơn”...; 92% người
dân được nghe đài phát thanh, 85% được xem truyền hình phát bằng tiếng dân tộc
thiểu số như: Mông, Thái, Êđê... tổ chức trình diễn trang phụ 54 dân tộc anh
em, thi Hoa hậu các dân tộc Việt Nam.
Như vậy, suốt
thời gian qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới việc bảo tồn, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa của từng dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc thể
hiện theo hướng: “Mỗi dân tộc khẳng định bản sắc văn hóa của mình và phát triển
sự hiểu biết với các dân tộc khác”, tạo nên nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Mặt khác, các
thế lực thù địch thường xuyên tiến hành các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc,
kích động, vu cáo Việt Nam phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số, thực hiện
âm mưu “chia để trị”.
Chúng xuyên tạc
rằng: Chính phủ Việt Nam phân biệt đối xử, đàn áp người dân tộc thiểu số; đẩy
người dân tộc thiểu số vào rừng sâu, lên vùng núi cao; hay cho rằng người Kinh
chiếm đất của người dân tộc thiểu số,... còn cho rằng: các dân tộc thiểu số có
dân số ít, đời sống kinh tế khó khăn, đồng hóa họ dể làm mất dần bản sắc văn
hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán...
Chúng lợi dụng
trình độ dân trí còn hạn chế của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số cư trú tại
vùng sâu, vùng xa khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, các thế lực thù địch
đã sử dụng âm mưu “chia để trị”, bằng việc sử dụng phương thức, thủ đoạn có sự
phối hợp trong - ngoài của các tổ chức phản động người dân tộc thiểu số Việt
Nam lưu vong... tuyên truyền, kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số đi
biểu tình đòi các quyền của người dân tộc như: tự do theo tôn giáo, đòi tự trị,
đòi trả đất đai... từ đó gây ra các vụ phá rối, bạo loạn... khi chính quyền xử
lý thì chúng kiến nghị với Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế đòi can thiệp.
Sự thật, đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn bảo vệ quyền bình đẳng
giữa các dân tộc. Mặc dù, người dân tộc chỉ chiếm 14,3% dân số của cả nước, nhưng
đại biểu quốc hội là người dân tộc thiểu số hiện nay chiếm 15,6%, đại biểu người
dân tộc thiểu số ha gia Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chiếm tỷ lệ 18%, cấp huyện
là 20,1%, cấp xã là 22,46%. Cán bộ người dân tộc thiểu số đa từng giữ cương vị
Tổng bí thư, hiện tại có người là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư trung ương Đảng...
và cán bộ chủ chốt ở các cấp.
Quá trình đầu
tư, phát triển vùng dân tộc, miền núi cần thiết phải thu hồi đất đai để xây dựng
các công trình trọng điểm quốc gia, Nhà nước đã ban hành các chính sách giải
quyết đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt và nhà ở cho các dân tộc thiểu số.
Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004; Quyết định số 1592/2009/QĐ-TTg
ngày 12/10/2009 và hiện nay là Quyết định số 755/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 về
giải quyết đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Thủ tướng Chính phủ cũng có Quyết định số 146/2007/TTg ngày 04/5/2007 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Quyết định số 146/2005/QĐ-TTg 15/6/2005 về chính sách
thu hồi đất của các nông, lâm trường để giao cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo. Trong quá trình sữa đổi Luật đất đai 2013, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên
trì chủ trương thu hồi đất các nông, lâm trường để cấp cho các hộ gia đình và cộng
đồng bà con dân tộc thiểu số, ở những nơi không còn quỹ đất thì bố trí chuyển đổi
nghề nghiệp bảo đảm cuộc sống cho đồng bào.
Mặc dù vẫn còn
một số hạn chế, khuyết điểm trong quá trình thực hiện chính sách, dân tộc,
nhưng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc tình cảm, trách
nhiệm của Đảng, Chính phủ, nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế với đồng bào. Đồng
thời đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn tin tưởng vào đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực góp phần giữ vững ổn định chính trị,
trật tự, an toàn xã hội vùng dân tộc, miền núi. Đặc biệt, trên trường quốc tế họ
đều phải thừa nhận một sự thật là những thành tưu và chính sách dân tộc đúng đắn
của Nhà nước Việt Nam.
Thảo Nga
Nhận xét