Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA TỔNG TUYỂN CỬ BẦU QUỐC HỘI KHÓA ĐẦU TIÊN CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Sau khi Cách
mạng Tháng Tám thành công, vào ngày 25-8-1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng (do Quốc dân Đại hội Tân Trào cử ra) được cải
tổ thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2-9-1945,
tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, đặt cơ
sở pháp lý quan trọng, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ lâm
thời là cơ quan điều hành nhà nước cao nhất giữ trọng trách lịch sử chỉ đạo
toàn dân thực thi các nhiệm vụ cấp bách về nội trị, ngoại giao, về quân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội..., đợi đến ngày bầu Quốc hội để cử ra một Chính phủ
chính thức, hợp pháp, hợp hiến.Vì vậy, ngày 3-9-1945, một ngày sau khi Nhà nước
cách mạng ra đời, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề nghị Chính phủ: “Tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử
với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có
quyền ứng cử và bầu cử...”. Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
14-SL quy định sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội. Sắc lệnh ghi rõ: “Tất
cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền tuyển cử
và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc
không bình thường”.Tiếp đó, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 51-SL ngày
17-10-1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông
đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín... Việc chuẩn bị cho Tổng tuyển cử
diễn ra rất khẩn trương trong điều kiện thù trong, giặc ngoài, tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội... hết sức khó khăn.Cuộc Tổng tuyển cử lúc đầu được dự
kiến là ngày 23-12-1945, nhưng gặp phải sự chống đối của Việt quốc, Việt cách.
Để thực hiện chủ trương thống nhất và hòa giải nhằm tạo bầu không khí ổn định
cho Tổng tuyển cử; đồng thời, để có thêm thời gian cho công tác chuẩn bị, nhất
là để các ứng cử viên có điều kiện nộp đơn và vận động tranh cử, ngày
18-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày
chủ nhật, 6-1-1946.
Ngày
6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra sôi nổi trong cả nước. Nhiều địa
phương, nhất là ở Nam Bộ, cuộc bầu cử đã diễn ra dưới bom đạn ác liệt của kẻ
thù. Nhiều cán bộ, chiến sỹ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ Tổng tuyển cử
(riêng ở Sài Gòn, Chợ Lớn có 42 cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh).Cuộc Tổng tuyển
cử đã được toàn dân tham gia rộng rãi, có địa phương đến 90% tổng số cử tri đi
bỏ phiếu. Cả nước đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc
các đảng phái dân chủ khác nhau, 43% đại biểu không đảng phái (87% số đại biểu
là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng, 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu các
dân tộc thiểu số).
Ngày
6-1-1946, đã thực sự là một ngày vui sướng của đồng bào ta, là ngày Tổng tuyển
cử - một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng
quyền dân chủ của mình.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 đánh dấu mốc phát triển
đầu tiên trong tiến trình xây dựng thể chế dân chủ trên đất nước Việt Nam.Quốc hội vừa là thành quả, vừa là
yêu cầu đặt ra bức thiết của cách mạng. Quốc hội ra đời trong khói lửa của cuộc
đấu tranh dân tộc gay gắt. Đó là Quốc hội lập quốc, Quốc hội của độc lập dân
tộc, của thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân. Quốc hội đã hội tụ
các đại biểu của cả ba miền Trung - Nam - Bắc, là ý chí của nhân dân
cả nước. Quốc hội đã có đại diện của tất cả thế hệ những người Việt Nam yêu
nước đương thời, từ những nhà cách mạng lão thành từng bôn ba nơi hải ngoại,
thử thách trong nhiều nhà tù đế quốc như Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng..., cho đến
những đại biểu trẻ tuổi đang tràn đầy nhiệt huyết (người trẻ tuổi nhất là
Nguyễn Đình Thi 22 tuổi). Quốc hội đã hội tụ đại biểu của tất cả các ngành, các
giới, các giai cấp tầng lớp xã hội, từ công nhân, nông dân, nam giới, nữ giới
cho đến những nhà tư sản, công thương, những nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt
động văn hóa nổi tiếng. Quốc hội cũng hội tụ đại biểu của các thành phần tôn
giáo trên đất nước ta như Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Cao Đài, ..., của tất cả
các thành phần dân tộc, từ đa số đến thiểu số; của tất cả những người không
đảng phái và các đảng phái chính trị như Đảng Cộng sản, Đảng dân chủ, những
đảng viên Xã hội cùng những người tiến bộ trong các phái chính trị khác.
Thắng lợi
Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra
triển vọng của một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính
phủ thống nhất, một bản Hiến pháp tiến bộ, và một hệ thống chính quyền hoàn
toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối
nội và đối ngoại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân
chủ - nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách
điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến và kiến quốc, giải quyết mọi
quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thắng lợi
Tổng tuyển cử đã khẳng định niềm tin tuyệt đối của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
vào tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Tổng tuyển cử diễn ra trong điều kiện
cách mạng đứng trước thử thách "Ngàn cân treo sợi tóc", khó khăn
chồng chất khó khăn; lại diễn ra trong điều kiện nhân dân ta vừa thoát khỏi
cuộc đời nô lệ của hàng nghìn năm phong kiến và gần trăm năm thuộc địa. Trong
điều kiện như thế, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quyết định Tổng tuyển cử.
Đó là một quyết định dũng cảm, táo bạo, kịp thời, chủ động và nhạy bén. Dũng
cảm và táo bạo bởi vì hiếm có một cuộc cách mạng nào trên thế giới vừa mới
thành công đã bắt tay ngay vào việc tiến hành Tổng tuyển cử trong một điều kiện
khó khăn bề bộn, nguy hiểm và éo le như vậy. Hoàn cảnh cách mạng Việt Nam năm
1946 đòi hỏi phải kịp thời vì nếu càng để chậm trễ, tình hình sẽ càng phức tạp,
nhất là khi chiến tranh lan rộng ra cả nước thì khó có cơ hội tiến hành Tổng
tuyển cử. Quyết định Tổng tuyển cử là dũng cảm, táo bạo, nhưng không phải phiêu
lưu mạo hiểm mà xuất phát từ bản lĩnh chính trị sắc bén, khoa học và thực tiễn
sâu sắc. Bởi vì Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân,
một nhân dân có truyền thống yêu nước, được cách mạng giác ngộ, vừa vùng dậy
làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Một nhân dân như thế nhất định sẽ có
đủ bản lĩnh chính trị và trí sáng suốt để làm trọn nhiệm vụ thiêng liêng của
người công dân xây dựng chế độ mới. Sự vĩ đại của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
chính là đã biết khơi nguồn và tổ chức nhân len gấp bội lần sức mạnh đó để làm
nên thắng lợi. Thực tiễn nhân dân đã kiên quyết ủng hộ Tổng tuyển cử, bảo vệ
triệt để Tổng tuyển cử, hăng hái tham gia Tổng tuyển cử, hy sinh cho Tổng tuyển
cử, sáng suốt trong bầu cử. Tổng tuyển cử là thể hiện lòng yêu nước, là kháng
chiến kiến quốc, là xây dựng chế độ mới.
Một cuộc
Tổng tuyển cử do chính Đảng tổ chức lãnh đạo đã hoàn toàn thắng lợi. Thắng lợi
đó, suy cho cùng, là Đảng đã biết dựa chắc vào nhân dân, bắt rễ sâu trong lòng
dân tộc. Đường lối của Đảng đã phản ánh được những khát vọng sâu xa nhất, bức
thiết nhất của nhân dân và dân tộc. Với lãnh tụ kiệt xuất là Chủ tịch Hồ Chí
Minh và thông qua Việt Minh, một tổ chức quần chúng rộng lớn do chính mình tổ chức
lãnh đạo, Đảng vẫn giữ vững được vai trò lãnh đạo trong nhân dân. Ngược lại,
bằng hành động thực tế, nhân dân đã tuyệt đối tin tưởng và xiết chặt đội ngũ
xung quanh Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Minh. Rõ ràng, sự lãnh đạo của
Đảng trong suốt 15 năm để làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, đem lại
độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, sự hy sinh chiến đấu quên mình của
những người cách mạng đã tạo tiền đề chính trị cho Tổng tuyển cử thắng lợi. Đó
là những bài học vô cùng quý báu mà cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 đem lại.
Nguyễn Soa
Nhận xét