MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VỚI CHIẾN TRANH VÀ QUỐC PHÒNG
Thông qua hoạt động thực tiễn của các hiện
tượng kinh tế, chiến tranh và quốc phòng, cũng như mối quan hệ giữa chúng đã
được con người nhận thức và luận giải dưới các góc nhìn khác nhau. Song chỉ đến
C.Mác và Ph.Ăngghen việc giải thích nguồn gốc, bản chất của chiến tranh, quốc
phòng, cùng mối quan hệ của nó với kinh tế mới được thực hiện một cách khoa
học. Đứng trên quan điểm của những nhà duy vật biện chứng, các ông đã chứng
minh rằng: Nguồn gốc, nguyên nhân của chiến tranh được sinh ra từ chính trong
hoạt động sản xuất vật chất của xã hội chứ không phải từ “ý niệm” của “Chúa”
hay từ bản năng của con người.
Kinh tế, chiến tranh và quốc phòng là các hiện tượng, khái niệm không
đồng nhất, nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng, kinh tế, chiến tranh và quốc phòng có mối quan hệ biện chứng với
nhau, một mặt chiến tranh, quốc phòng
phụ thuộc vào kinh tế, mặt khác chúng lại tác động trở lại đối với kinh tế. Văn kiện Đại hội XII Đảng ta chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng,
an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội”[1]
Sự phụ thuộc của chiến tranh và quốc phòng
vào kinh tế được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế là nguyên nhân
suy đến cùng làm nảy sinh các cuộc chiến tranh.
Nhìn lại lịch sử của nhân loại đã cho thấy
chiến tranh chỉ nảy sinh trong điều kiện xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất và sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa con người với nhau.
Chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã phân chia xã hội thành các giai
cấp đối kháng và dẫn đến sự ra đời của nhà nước cùng với công cụ bạo lực là tổ
chức quân sự để duy trì sự thống trị của nó. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, để
tăng cường sự thống trị về kinh tế, các chủ nô đã sử dụng tổ chức quân sự của
nhà nước để vừa áp bức giai cấp bị trị, vừa tiến hành các cuộc chiến tranh xâm
lược, cướp bóc và nô dịch các dân tộc khác. Từ đó, cho đến suốt thời kỳ phong
kiến, chiến tranh và quốc phòng trở thành hiện tượng xã hội thường xuyên của
các xã hội có đối kháng giai cấp.
Trong thời đại tư bản chủ nghĩa, nguyên
nhân kinh tế của chiến tranh và quốc phòng đã trở nên thực sự rõ nét hơn. Như
V.I.Lênin đã khẳng định, chiến tranh trở thành “bạn đường” của chủ nghĩa đế
quốc, là công cụ để các thế lực tư bản độc quyền chiếm đoạt thị trường và các
nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ của các nước. Vì mục đích chạy theo lợi nhuận
độc quyền, các nhà tư bản dùng mọi thủ đoạn kể cả gây chiến tranh để thu lợi
nhuận. V.I.Lênin đã nhận xét: “Thử hỏi, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản, ngoài
chiến tranh ra còn có phương sách nào khác để khắc phục tình trạng không cân
đối giữa một bên là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tích luỹ tư bản và
một bên là sự phân chia thuộc địa và “các khu vực ảnh hưởng” cho tư bản tài
chính, được chăng”[2]. Thực tế lịch sử đã chứng minh, vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do sự phát triển không đều về kinh tế giữa các nước tư
bản chủ nghĩa, các nước đế quốc già (Anh, Nga, Pháp) đã chiếm hầu hết lãnh thổ
thế giới làm thuộc địa, trong khi đó, các nước đế quốc trẻ (Đức, Mỹ, Nhật) thì
không có km2 thuộc địa nào, từ đó xuất hiện nhu cầu phân chia lại
thị trường và khu vực ảnh hưởng, có lợi cho các nước để quốc trẻ. Trên cơ sở
kinh tế ấy, hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) và thứ hai
(1939 - 1945) đã nổ ra. Cũng chính do bản chất hiếu chiến, xâm lược của chủ nghĩa
đế quốc, nên thế giới đang phải tiếp tục chứng kiến những cuộc chiến tranh do
chính các nước đế quốc và đồng minh của nó gây ra ở Nam Tư , Irắc, Afgahanistan,
Syri...
Tuy nhiên, chiến tranh không trực tiếp
sinh ra từ kinh tế mà thông qua chính trị, nhưng chính trị bao giờ cũng là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế, phản ánh những lợi ích kinh tế nhất định. Do
vậy, kinh tế là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh chiến tranh và quốc phòng. Kinh
tế còn qui định mục tiêu và tính chất của chiến tranh. Nếu một cuộc chiến tranh
tiến hành vì mục tiêu cướp bóc, nô dịch các dân tộc khác thì đó là chiến tranh
phi nghĩa. Trái lại, nếu đó là cuộc chiến tranh được tiến hành vì sự giải phóng
con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, vì tự do và tiến bộ xã hội, vì sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc, chống lại kẻ thù xâm lược thì đó là cuộc chiến tranh
chính nghĩa.
Hai là, kinh tế là nguồn cung cấp các
phương tiện vật chất, kỹ thuật để tiến hành chiến tranh và thực hiện các nhiệm
vụ quốc phòng.
Để tiến hành chiến tranh và phòng thủ đất
nước, bên cạnh nhân tố con người, tất yếu phải có các yếu tố vật chất, vũ khí,
khí tài và trang bị quân sự khác. Yếu tố vật chất ấy chỉ có thể được sản xuất
ra bởi các ngành kinh tế quốc dân. Ph.Ăngghen nhận xét: “…bất cứ ở đâu và bất
cứ lúc nào, những điều kiện kinh tế và tài nguyên kinh tế đều là những cái đã
giúp cho “bạo lực” chiến thắng, nếu không có những điều kiện và tài nguyên đó
thì bạo lực không còn là bạo lực nữa…”[3].
Vai trò của kinh tế đối với chiến tranh và quốc phòng được thể hiện trên cả hai
khía cạnh kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - xã hội. Trên phương diện kinh tế - kỹ thuật, trình độ phát triển
của nền kinh tế sẽ quyết định trình độ vũ khí, trang bị của lực lượng vũ trang.
Trình độ phát triển của nền kinh tế càng cao thì khả năng trang bị cho lực
lượng vũ trang các loại vũ khí, trang bị, phương tiện quân sự càng hiện đại;
khả năng nuôi dưỡng, huấn luyện, đào tạo nhân lực quân sự càng tốt hơn.
Ba là, sự phát triển kinh tế ảnh hưởng
quyết định đến cơ cấu, tổ chức biên chế, phương pháp và hình thức tác chiến của
lực lượng vũ trang.
Khi bàn về vấn đề này, Ph. Ăngghen đã
viết: “Không có gì lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế hơn là chính ngay
quân đội và hạm đội. Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược phụ
thuộc trước hết vào trình độ sản xuất đạt được trong một thời điểm nhất định”[4]. Vậy,
sự phát triển của sức sản xuất là những tiền đề vật chất cho sự ra đời của các
loại vũ khí trang bị mới. Song đến lượt nó, sự xuất hiện của các loại vũ khí
trang bị mới lại tạo ra điều kiện làm biến đổi cơ cấu tổ chức, biên chế của lực
lượng vũ trang và theo đó làm thay đổi cả hình thức và phương pháp chiến đấu
của quân đội.
Từ những phân tích trên đây đã cho thấy,
kinh tế là nhân tố suy đến cùng quyết định chiến tranh và quốc phòng, nhưng chiến
tranh và quốc phòng không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại
kinh tế theo hai chiều hướng cả tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực: Các hoạt động quốc phòng trong thời bình ở mức độ
nhất định có tác dụng kích thích nền kinh tế phát triển và bảo vệ môi trường
hoà bình và ổn định cho sự phát triển của nền kinh tế. Về mặt tiêu cực: Chiến
tranh và hoạt động quốc phòng tiêu hao kinh tế, cản trở sự phát triển của nền
kinh tế và hạn chế thoả mãn các nhu cầu vật chất của xã hội. Đồng thời chiến
tranh và quốc phòng để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế, làm ảnh hưởng đến
cơ cấu và phương hướng phát triển kinh tế thông qua học thuyết, quan điểm và
chiến lược quân sự.
Hiện nay các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu
“Diễn biến hoà bình” đòi “phi chính trị
hóa quân đội”. Đặc biệt chúng cho rằng quân đội “không làm kinh tế”, nhằm xóa bỏ chức năng “đội quân lao động sản
xuất” trái với quan điểm của Đảng về nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc phòng. Để
làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực
kinh tế, quốc phòng đối với nước ta hiện nay, phải được xác định đây là hình
thức đấu tranh đặc biệt “cuộc chiến tranh không khói súng”, là cuộc đấu tranh
quyết liệt, phức tạp và lâu dài. Đòi
hỏi, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát huy sức mạnh
tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị, đập tan mọi
âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch hiện nay.
Nhận thức tính biện chứng về mối quan hệ
giữa kinh tế với chiến tranh và quốc phòng là vấn đề thiết thực bảo đảm tính
khách quan. Đòi hỏi toàn Đảng, toàn đân và toàn quân ta tập trung sức phát
triển kinh tế. Đồng thời quan tâm xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh,
trong đó chú trọng xây dựng quân đội: “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại”.
Nhận xét