NHẬN THỨC RÕ HƠN VỀ VAI TRÒ “ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG” CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
Nghị
quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế…”. Tuy nhiên thời gian gần
đây, nhiều ý kiến cho
rằng kinh tế tư nhân cần và nên được đặt vào vị trí chủ đạo, nền tảng của nền
kinh tế quốc dân. Vậy thực chất của vấn đề này như thế nào?
Từ năm 1986, với quan điểm đổi mới
toàn diện, trong đó xác định đổi mới kinh tế là trung tâm, Nghị quyết Đại hội
VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Đến năm
2002, Đảng ban hành nghị quyết số 14-NQ/TW “Về tiếp tục đổi mới
cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, chính thức từ đây, Kinh tế tư nhân được xem là bộ phận
quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến
lược lâu dài. Đại hội X (2006) tiếp tục thừa nhận kinh tế tư nhân là một trong những
động lực của nền kinh tế; Đại hội XI (2011) khuyến khích thành lập các tập đoàn
kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Cùng với
đó, năm 2006, Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành quy định số 15-QĐ/TW “Về
đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Sau hơn 10 năm thực hiện, đến nay có 2,72% trong tổng số đảng viên toàn
Đảng làm kinh tế tư nhân, nhiều đảng viên đã phát huy nguồn lực, năng lực làm
giàu chính đáng cho gia đình và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế -
xã hội…
Như vậy, về mặt pháp lý và thực tế, Kinh
tế tư nhân đã có chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế đất nước. Dĩ nhiên, nếu
cho rằng kinh tế tư nhân là nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thì chưa đúng. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, hạ tầng cơ sở của mỗi thời đại lấy quan hệ
sản xuất đặc trưng, tiêu biểu của thời đại đó làm nền tảng. Cơ sở
kinh tế để một thành phần kinh tế được xác lập giữ vai trò chủ đạo, nền tảng vẫn
do quan hệ sản xuất quyết định, mà quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất. Kinh tế Nhà nước dựa trên quan hệ sở hữu toàn dân về tư liệu sản
xuất, trong khi đó Kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế
tư bản tư nhân) vẫn dựa trên nền tảng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất… Vì lẽ đó, không thể thượng tầng kiến trúc của nước ta vận hành theo định
hướng xã hội chủ nghĩa mà hạ tầng cơ sở dựa trên chế độ sở hữu tư nhân – đặc
trưng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, dù có những đóng góp quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội thì Kinh tế tư nhân vẫn không thể thay thế vai trò chủ
đạo, nền tảng của Kinh tế nhà nước ở nước ta.
Một
quan điểm khác cũng cho rằng, trong thời gian qua, Kinh tế nhà nước hoạt động
kém hiệu quả, trong khi đó kinh tế tư nhân đã ngày càng phát triển; tỉ trọng
trong GDP chiếm 39 - 40%; đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có
quy mô lớn; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh; số lượng doanh nghiệp tăng
nhanh với nhiều loại hình đa dạng… Do vậy, chỉ có kinh tế tư nhân mới là động
lực chủ yếu để đưa nền kinh tế đi lên, nên hãy để cho tư nhân đảm nhiệm vai trò
chủ đạo, nền tảng.
Cần
nhận thấy một thực tế là, cả Kinh tế nhà nước và Kinh tế tư nhân đều chịu sự
tác động của những quy luật kinh tế khách quan, do đó đều có những đơn vị hoạt
động hiệu quả và những đơn vị làm ăn kém hiệu quả. Những năm qua, trong thành
phần Kinh tế nhà nước có nhiều tập đoàn, doanh nghiệp khẳng định tính hiệu quả,
nổi lên là Tập đoàn Dệt may Việt Nam với
kim ngạch xuất khẩu tăng 8-10% trong hai năm 2016, 2017; Tập đoàn Viễn thông
Quân đội (Viettel) doanh thu hàng năm tăng từ 15-20%. Trong số hơn 561.000 doanh nghiệp
đang hoạt động trên cả nước, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi là 47,3%, trong
đó, tỷ lệ các doanh nghiệp nhà nước có lãi đạt cao nhất. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp FDI, doanh nghiệp tư nhân thu lợi nhuận cao song mức đóng góp vào ngân
sách thấp[1]…
Những số liệu trên một lần nữa khẳng định, dù có những bước thăng trầm trong
quá trình phát triển, song Kinh tế nhà nước vẫn là đầu tàu, đủ năng lực chủ đạo,
định hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu xã hội chủ
nghĩa.
Nhìn
một cách rõ nét nguyên nhân của những yếu kém đang tồn tại trong Kinh tế nhà
nước là do trình độ quản lý kinh tế trong nước còn yếu kém dễ bị tác động, thậm
chí là đổ vỡ từ yếu tố bên ngoài. Điều đó đòi hỏi kinh tế Nhà nước cần chủ động
hơn nữa trong dự báo, nắm bắt thị trường, đổi mới cơ chế quản lý để phát triển.
Và trên thực tế, đường lối cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã và đang thực
hiện sẽ góp phần nâng cao vai trò của kinh tế nhà nước trong thời gian tới, khi
mà đối tượng cổ phần hóa do Nhà nước quyết định: cổ phần doanh nghiệp nào, toàn
bộ hoặc một phần. Nhà nước có thể không tham gia cổ đông, hoặc tham gia với tư
cách là cổ đông thường hay cổ đông chi phối. Tiền thu về hoặc để đầu tư trở lại
doanh nghiệp hoặc đầu tư để phát triển doanh nghiệp mới. Người mua cổ phần đa
dạng: doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp tập thể; nhà đầu tư nước ngoài (coi
trọng nhà đầu tư chiến lược) bao gồm nhà nước và tư nhân; nhà đầu tư tư nhân
trong nước; bản thân người lao động....
Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu
phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò, vị
thế của Kinh tế tư nhân ở nước ta đã có một bước tiến dài so với trước đây. Hiện
nay, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện về thể chế, nhất là chỉ đạo tổ
chức thực tiễn để thực hiện đúng đường lối, chính sách, phát huy hơn nữa tiềm
năng của Kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, những quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân vẫn được sử dụng khi thực tế có nhu cầu, nhưng không thể đặt vào
vai trò là nền tảng, chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Cũng đừng quên rằng ở
Việt Nam, kinh tế tư nhân hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước pháp quyền, chịu sự chi phối của tính
định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Vì vậy, hãy đừng gán cho kinh tế tư nhân vai trò và nhiệm vụ
mà nó không thể có và không thể nào thực hiện được./.
Nhận xét