“LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN” – LỜI HỊCH CỦA NON SÔNG
Đã 70 năm trôi qua kể
từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” (19/12/1946
- 19/12/2015), nhưng âm hưởng hào hùng của lời kêu gọi bất hủ ấy vẫn mãi trường
tồn cùng lịch sử dân tộc Việt Nam, mãi là lời hịch của non sông, một văn kiện mang
tính cương lĩnh quân sự có giá trị lịch sử trong mọi thời đại, thể hiện ý thức
sâu sắc giá trị của độc lập dân tộc và niềm tin vững bền về con đường cách mạng
mà toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Trong suốt chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, toàn thể quốc dân đồng bào
đã nhất tề đứng dậy chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi đất nước trước lời hiệu
triệu sục sôi hào khí “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”,
khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc với chân lý
“không có gì quý hơn độc lập tự do”. Kế thừa hào khí chống giặc, giữ nước trong
lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt chèo lái đưa con thuyền cách
mạng vượt qua thác ghềnh “nghìn cân treo sợi tóc” bằng một quyết định quan
trọng, một quyết định thể hiện sự lựa chọn của lịch sử vào ngày 19/12/1946 -
Ngày toàn quốc kháng chiến.
Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông
đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử
dân tộc Việt Nam. Từ đây, chính quyền cách mạng về tay nhân dân; nhân dân lao
động đã trở thành người làm chủ vận mệnh dân tộc mình. Song, chính quyền cách
mạng non trẻ đang đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, tình thế cách mạng
lúc này mong manh như “nghìn
cân treo sợi tóc” phải đối mặt với nhiều kẻ thù cùng lúc: Giặc đói, giặc dốt và đặc biệt
là giặc ngoại xâm.
Trong bối cảnh trên
đất nước ta có nhiều quân nước ngoài chiếm đóng và mưu đồ xâm lược trở lại của
thực dân Pháp, Bác Hồ và Đảng ta vừa kiên định mục tiêu giải phóng dân tộc, vừa
áp dụng nhiều sách lược mềm dẻo để vượt qua tình thế hiểm nghèo. Sách lược hòa
hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng đã làm thất bại âm mưu “diệt Cộng cầm Hồ” của
chúng để tập trung lực lượng chống Pháp. Sau đó, Hiệp định Sơ bộ 06/3/1946 và
Tạm ước 14/9/1946 đã đẩy quân Tưởng về nước, hòa hoãn và nhân nhượng với thực
dân Pháp để cố gắng duy trì hòa bình và có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến.
Nhưng thực dân Pháp
xé bỏ Hiệp định Sơ bộ 06/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, lập chính phủ Nam kỳ tự
trị, nhằm tách Nam bộ ra khỏi nước Việt Nam thống nhất; dùng quân sự đánh chiếm
toàn Nam bộ và mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Ngày 20/11/1946, quân Pháp
chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, mở đầu kế hoạch lấn chiếm miền Bắc nước ta. Từ đầu
tháng 12-1946 trở đi, tình hình ngày càng nghiêm trọng hơn. Quân Pháp chiếm
thêm Hải Dương, khiêu khích Hà Nội và nhiều nơi khác.
Trước tình hình đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp yêu cầu
tìm mọi cách cứu vãn hòa bình, tránh đổ máu. Người cũng gửi thư cho các nước
Anh, Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô và các nước thành viên Liên Hiệp Quốc nêu rõ thiện
chí hòa bình và quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước của mình. Nhưng mọi cố gắng
đều vô hiệu, những nẻo đường hòa bình đều bị thực dân Pháp cắt đứt. Quân Pháp
liên tục nổ súng vào nhiều nơi ở Hà Nội; đặc biệt gây ra cuộc tàn sát đẫm máu ở
phố Hàng Bún và Yên Ninh.
Trong ngày 18/12/1946,
thực dân Pháp gửi cho Chính phủ ta hai “tối hậu thư” thông báo: sẽ chiếm đóng
Sở Tài chính và nhà viên Giám đốc Giao thông; phá hủy các công sự của ta; đảm
nhiệm việc trị an Hà Nội chậm nhất sáng ngày 20/12/1946. Sáng sớm ngày 19/12/1946,
Chính phủ ta lại nhận thêm “tối hậu thư” thứ ba của Pháp, trong đó quân Pháp
đòi: tước vũ khí quân tự vệ Hà Nội; đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng
chiến; trao cho quân đội Pháp nhiệm vụ duy trì an ninh thành phố.
Sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính phủ và nhân dân ta nỗ lực
cứu vãn một nền hòa bình mong manh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Việt
Nam với Pháp, bằng thiện chí hòa bình và tư tưởng nhân đạo. Chính phủ và chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đàm phán, thương lượng nhân nhượng cho Pháp nhiều quyền
lợi với mong muốn Pháp công nhận 1 nước Việt Nam độc lập có chủ quyền thể hiện
qua Bản hiệp ước sơ bộ 06/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Tuy nhiên, việc ký hiệp
ước với ta chỉ là một kế sách kéo dài hòa hoãn để chuẩn bị thực hiện cho âm mưu
xâm lược nước ta lần nữa với quy mô lớn. Tháng 11/1946, chúng gây xung đột vũ
trang ở Hải Phòng, Lạng Sơn..., hành động gây chiến xâm lược của chúng càng
ngày càng tăng cường. Ngày 18/12/1946 Tướng Maxrie – Tư lệnh quân viễn
chinh Pháp ở miền Bắc Đông Dương gửi tối hậu thư đòi chính phủ ta giải tán lực
lượng tự vệ và trao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng.
Tình thế nghiệt ngã
đó buộc Bác Hồ, Đảng ta phải có lựa chọn đúng đắn, kịp thời. Ngày 18 và 19/12/1946,
tại làng Vạn Phúc, tỉnh Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Hội nghị đã có quyết định lịch sử: phát động toàn
quốc kháng chiến; mở đầu vào lúc 20 giờ đêm 19/12/1946 ngay tại thủ đô Hà Nội.
Trong
ngày 19/12/1946, tại làng Vạn Phúc - Hà Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến. Ngay đêm đó, đúng 20 giờ, quân và dân thành phố Hà
Nội đã nổ súng mở đầu toàn quốc kháng chiến. Đòn đánh phủ đầu này làm tiêu tan
kế hoạch đảo chính, đánh úp của Pháp dự kiến diễn ra vào sáng 20/12/1946; đẩy
địch vào thế bị động, đối phó; sau đó, giam chân chúng tại thành phố Hà Nội hai tháng
để hậu phương chuẩn bị cuộc chiến đấu lâu dài.
Sáng ngày 20/12/1946,
Đài Tiếng nói Việt Nam (đóng tại chùa Trầm, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông) phát
đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếng Người vang
vọng:
“Hỡi đồng bào toàn
quốc!
Chúng ta muốn hòa
bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp
càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng
lên!
Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ,
tự vệ, dân quân!
Giờ
cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao
kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân
tộc ta!
Việt Nam độc lập và
thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi
muôn năm!”
Toàn văn “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng súc tích, giản dị, đanh thép, có sức cổ vũ,
động viên và tổ chức lực lượng kháng chiến vô cùng mạnh mẽ. Trong giờ phút Tổ
quốc lâm nguy, tình thế hết sức hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”, từng câu
từng chữ trong lời kêu gọi kháng chiến thiêng liêng của Bác nhanh chóng thấm
nhuần sâu sắc vào tâm khảm Nhân dân ta, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn
dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, kiên cường của Nhân dân
Việt Nam; là hiệu lệnh làm sục sôi khí thế đấu tranh bằng sức mạnh của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với mọi thứ vũ khí có
sẵn, với một ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, một thái độ dứt
khoát và kiên định: “Thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”.
Kỷ niệm 70
năm ngày toàn quốc kháng chiến, đây là dịp để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
ta ôn lại những bài học sâu sắc của lịch sử, phát
huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân, đồng sức chung lòng tạo nguồn động lực to
lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhanh chóng đưa đất nước bước ra
khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, phát triển bền vững, hội nhập sâu rộng và
toàn diện với nền kinh tế thế giới, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như
Bác Hồ kính yêu vẫn hằng mong muốn.
Nguyễn Kỳ Tài
Nhận xét