ĐẤT ĐAI THUỘC SỞ HỮU TOÀN DÂN DO NHÀ NƯỚC ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ HỮU


Luật đất đai 2013 số 45/2013/QH13đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, luật đất đai có 14 chương với 212 điều.Luật này quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với đất đai thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sau khi luật đất đai được sửa đổi bổ sung, các tầng lớp nhân dân đều nhất trí cao và chấp hành triệt để trong thực hiện điều luật. Bởi lẽ, việc hiến định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã tạo điều kiện để đất đai được sử dụng có hiệu quả và phù hợp với lợi ích chung của người dân và mục đích của Nhà nước. Bên cạnh đó, qua thời gianthực hiện vẫn còn một số ý kiến phản hồi, phải tư nhân hóa đất đai; thậm chí còn cho rằng, sở hữu toàn dân về đất đai là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những vụ đơn thư,khiếu nại, tố cáo trong nhân dân thời gian qua trong việc thực hiện sở hữu đất đai.
Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mục đích để làm rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản là giai cấp bóc lột, C.Mác đã chỉ ra giai cấp tư sản bóc lột sức lao động của người công nhân không những trong lĩnh vực công nghiệp mà nó còn cả trong lĩnh vực nông nghiệp, đó là địa tô tư bản chủ nghĩa.Lý luận địa tô TBCN đã chỉ rõ phương thức kinh doanh TBCN trong nông nghiệp dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về đất đai.Địa tô TBCN là biểu hiện đặc thù của quan hệ sản xuất TBCN trong lĩnh vực nông nghiệp. CNTB đã hoàn thành phá vỡ sản xuất nhỏ trong nông nghiệp, buộc nông dân bị thôn tính ruộng đất phải làm thuê, lệ thuộc vào tư bản kinh doanh nông nghiệp và người cho vay nặng lãi. Trong CNTB, độc quyền tư hữu ruộng đất gắn với độc quyền kinh doanh ruộng đất tất yếu sinh ra địa tô (bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp phải nộp cho chủ sở hữu ruộng đất). Địa tô tuyệt đối chỉ tồn tại trong điều kiện của chế độ tư hữu ruộng đất.Muốn xóa bỏ địa tô tuyệt đối, phải xóa bỏ chế độ tư hữu ruộng đất. Như vậy lý luận về ruộng đất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vạch rõ tính chất thối nát của chế độ sở hữu tư nhân về đất đai và yêu cầu tất yếu phải giành lại quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; đồng thời, đấu trang đòi thủ tiêu quan hệ tư hữu ruộng đất TBCN.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân là điều kiện phát triển đất nước theo định hướng XHCN, là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá; là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản nguồn lực to lớn của đất nước và là nguồn sống của nhân dân. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai không chỉ phù hợp với lý luận Mác - Lê-nin, với thực tiễn lịch sử mà nó còn là một tất yếu khách quan của quá trình phát triển ở nước ta.
Về mặt kinh tế - xã hội, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt; là đối tượng sở hữu đặc biệt không thể đánh đồng như sở hữu những tư liệu sản xuất khác và là phương tiện cơ bản nhất, quan trọng nhất đối với sự tồn tại của cả cộng đồng xã hội. Đất đai là lãnh thổ; là nơi cư trú của cả cộng đồng, cũng là cơ sở vật chất để tiến hành xây dựng chiến lược, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Vì vậy, đất đai có vai trò, vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn vong, ổn định và phát triển của quốc gia, dân tộc. Như vậy mỗi chúng ta hôm nay, đang được sống trong thời bình, làm ăn sinh sống trên chính mảnh đất mà các thế hệ cha ông chúng ta đã hy sinh xương máu giành lại nền độc lập tư do, do đó đất đai không bao giờ được coi là đối tượng sở hữu cá nhânmà nó phải thuộc sở hữu của toàn dân, do Nhà nước quản lý.
Đất đai dù là tư liệu sản xuất đặc biệt nhưng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nó vẫn phải vận động theo quy luật khách quan. Vì thế, cần có chủ thể sản xuất và trao đổi cụ thể.Nếu không thì quan hệ sở hữu cũng bị biến dạng, lực lượng sản xuất không thể phát triển được. Cho nên, ở Việt Nam, tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn. Đối tượng được giao quyền sử dụng đất đã được mở rộng, đa dạng hóa. Quyền của người sử dụng đất cũng được tăng thêm, gồm các quyền: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Như thế, quyền sử dụng đất là quyền của mỗi người dân, người dân không ủy quyền cho Nhà nước, người dân cũng không bị mất quyền này. Trái lại, mọi người dân có quyền tiếp cận với đất đai và đất đai được sử dụng có hiệu quả, hợp lý.
Cũng cần hiểu rằng, quyền sử dụng đất không phải là quyền sở hữu.Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ. Quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai được biểu hiện thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân. Nhà nước đại diện chủ sở hữu thực hiện việc kiểm soát quyền sử dụng và định đoạt thu hồi đất đai khi cần thiết. Người sử dụng đất có trách nhiệm bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích, thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, được bồi thường thỏa đáng khi Nhà nước thu hồi đất. Do vậy, làm chủ đất đai là thực hiện đúng các quyền của người sử dụng đất.
Trong những năm qua, tình trạng quản lý, sử dụng đất đai còn nhiều bất cập, lãng phí diễn ra ở hầu khắp các địa phương, chính sách pháp luật về đất đai và việc thực thi chính sách pháp luật về đất đai ở các cấp từ Trung ương xuống địa phương còn những hạn chế, thiếu sót. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên những bức xúc trong nhân,một số đối tượng cơ hội, thành phần bất hảo và một bộ phận nhân dân bị kích động, lôi kéo đã có những hành hành động dân dẫn đến khiếu kiện, tố cáo kéo dài ở nhiều nơi và đây cũng là một trong những trở ngại lớn của phát triển kinh tế - xã hội đã được đề cập nhiều. Thời gian qua, dù các cấp, các ngành đã đẩy mạnh thanh tra, xử lý vi phạm nhưng tình trạng sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai ở một số chính quyền, địa phươngvẫn còn xảy ra.
Do vậy có nhiều ý kiến cho rằng, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai chính là nguồn gốc của những đơn thư, khiếu tại, tố cáo về quản lý, sử dụng đất đai hiện nay là mơ hồ, sai lầm, lẫn lộn giữa bản chất và hiện tượng. Những bức xúc của nhân dân về đất đai bắt nguồn chủ yếu từ những yếu kém trong công tác sử dụng, quản lý đất đai còn nhiều lỏng lẻo, chưa xem xét kỹ càng và đền bù cho dân nhiều nơi chưa thỏa đáng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, phần lớn dân số là nông dân, nguồn sống chủ yếu từ đất đai. Sở hữu toàn dân tức là mỗi người dân đều có quyền, còn Nhà nước chỉ là đại diện chủ sở hữu thực hiện quyền quản lý về đất đai, bảo đảm sử dụng hợp lý, có hiệu quả. Đồng thời, việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta hiện nay còn tránh được những hậu quả do chế độ sở hữu tư nhân đất đai gây ra, xóa bỏ tình trạng dùng độc quyền sở hữu đất đai với mục đích bóc lột người sử dụng đất. Nhân dân ta không lựa chọn con đường phát triển TBCN, tư nhân hóa đất đai, hy sinh quyền lợi làm chủ ruộng đất của người lao động, chấp nhận sự tích lũy ruộng đất vô lối vào số ít người giàu có trong xã hội. Hiến pháp quy định sở hữu toàn dân về đất đai là cơ sở pháp lý để mọi người bảo vệ lợi ích của chính mình trong việc sử dụng tài sản công. Vì vậy, kiên trì nguyên tắc hiến định đất đai thuộc sở hữu toàn dân không chỉ phù hợp với thực tiễn lịch sử, mà còn là điều kiện phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Như vậy, việc thể chế hóa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiến pháp đã nhận được sự đồng tình, nhất trí cao trong nhân dân. Còn việc quy định Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đất đai và thống nhất quản lý cũng xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.Từ những vấn đề trên cho thấy, việc quy định đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của Hiến pháp là cần thiết và đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta hiện nay, bảo đảm sự thống nhất lợi ích của người dân và lợi ích quốc gia.
                                                                                                                  Dương Duy

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LIỆU NGÀY NAY GIAI CẤP CÔNG NHÂN CÓ CÒN BỊ BÓC LỘT?

HIỂU ĐÚNG NGHĨA CỤM TỪ “DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH”

BỆNH KINH NGHIỆM, GIÁO ĐIỀU VÀ CÁCH KHẮC PHỤC