LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC MÃI MÃI CÒN NGUYÊN GIÁ TRỊ
Có ý kiến cho
rằng quy luật sản xuất giá trị thặng dư chỉ đúng với trình độ phát triển thấp
của chủ nghĩa tư bản, khi máy móc còn thô sơ và lao động giản đơn còn phổ biến.
Trái lại, trong điều kiện ứng dụng rộng rãi những thành tựu của cách mạng khoa
học và công nghệ, hệ thống máy móc ngày càng tinh vi và hiện đại thì máy móc
mới là nguồn tạo ra giá trị thặng dư, chứ không phải lao động sống. Vì vậy lý
luận giá trị thặng dư không còn hợp nữa. Nhận định trên đây là hoàn toàn sai
lầm:
Cần nhớ rằng tư
bản không hề phát minh ra lao động thặng dư. Nơi nào mà một bộ phận xã hội
chiếm độc quyền về tư liệu sản xuất thì
nơi đó những người lao động tự do hay không tự do đều buộc phải thêm vào lao
động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao động dôi ra dùng
để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho những người chiếm hữu tư liệu sản xuất.
Điều khác biệt cơ bản chỉ là trong chủ nghĩa tư bản việc chiếm đoạt lao động
thặng dư của người công nhân làm thuê không thực hiện bằng cách cưỡng bức trực
tiếp và trắng trợn như dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến mà
thông qua quan hệ hàng hóa- tiền tệ, trong đó việc chiếm đoạt lao động thặng dư
biểu hiện dưới hình thái chiếm đoạt giá trị thặng dư (hay lợi nhuận). Giá trị
sức lao động mà nhà tư bản trả cho người công nhân dưới hình thái tiền công bao
giờ cũng nhỏ hơn đại lượng giá trị mới mà công nhân đã tạo ra trong sản xuất. Có
thể nói, mỗi phút người công nhân lao động một số giây cho mình và một số giây
cho nhà tư bản, và nhà tư bản chỉ tiếp
tục thuê công nhân chừng nào người đó còn tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn
giá trị sức lao động của anh ta. Từ đó, C, Mác đã phân tích rằng giá trị của
hàng hóa trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bao gồm giá trị những tư liệu sản
xuất đã được tiêu dùng chuyển sang (ký hiệu là c) và lượng giá trị mới do lao
động sống thêm vào (ký hiệu là v + m), trong đó v bù lại tư bản khả biến đã ứng
ra để trả tiền công(ngang với sức lao động) còn m là giá trị thặng dư, tức là
giá trị dư ra ngoài giá trị sức lao động. Tóm lại, nguồn gốc của giá trị thặng dư chỉ là lao động sống.
Sở dĩ có nhận
thức sai lầm rằng, máy móc hiện đại là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư là do
chưa phân biệt được máy móc với tư cách là yếu tố của quá trình lao động tạo ra giá trị sử dụng
với máy móc đóng vai trò là yếu tố của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị
hàng hóa. Hàng hóa có hai thuộc tính:giá trị sử dụng và giá trị bởi vì lao động
sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Bất
cứ quá trình lao động nào cũng bao gồm các nhân tố chủ yếu là: lao động có mục
đích của con người, đối tượng lao động, tư liệu lao động(mà quan trọng hơn cả
là công cụ lao động, nhất là công cụ cơ khí hay máy móc). Sử dụng máy móc càng hiện đại thì sức sản xuất
của lao động càng cao, càng làm ra nhiều giá trị sử dụng( nhiều của cải) trong
một đơn vị thời gian.
Nhưng khi xét
quá trình tạo ra và làm tăng giá trị thì những hàng hóa tham gia vào đây không
được xét với tư cách những nhân tố vật thể nữa mà chỉ được coi là những lao
động đã được vật hóa nhất định. Và dù máy móc (kể cả rô bốt) quan trọng đến mức
nào cũng không thể tự mình chuyển giá trị vào sản phẩm (chứ đừng nói gì đến
việc tạo thêm giá trị). Chính lao động đã “cải tử hoàn sinh” cho các tư liệu
sản xuất trong đó có máy móc, chuyển giá trị của chúng vào sản phẩm mới theo
mức độ đã tiêu dùng trong quá trình lao động. Nhưng một tư liệu sản xuất không
bao giờ chuyển vào sản phẩm một giá trị nhiều hơn giá trị mà nó đã mất đi trong
quá trình lao động do giá trị sử dụng của bản thân nó bị hủy hoại đi. C. Mác ví
máy móc, thiết bị trong quá trình làm tăng giá trị giống như bình cổ cong trong
phòng hóa nghiệm, không có bình cổ cong thì không có nơi diễn ra các phản ứng
hóa học, nhưng bản thân bình cổ cong chỉ là điều kiện cho phản ứng hóa họa diễn
ra chứ không trực tiếp tham gia vào phản ứng ấy. Cũng như vậy, thiết bị máy móc
chỉ tạo điều kiện cho việc làm tăng giá trị của hàng hóa chứ bản thân nó không
trực tiếp tham gia vào việc làm tăng giá trị.
Việc những nhà
sản xuất sử dụng máy móc tiên tiến lại thu được giá trị lợi nhuận siêu ngạch là
do công nghệ tiên tiến làm tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt
của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường mà ra. Một khi những công nghệ đó trở
thành phổ biến, các đối thủ cạnh tranh đã đuổi kịp trình độ tiên tiến rồi thì
giá trị thị trường sẽ hạ xuống, hàng hóa rẻ đi, những người tiêu dùng được lợi
nhưng không có người sản xuất nào thu được lợi nhuận siêu ngạch nữa.
Cũng cần lưu ý
rằng máy móc là phương tiện giảm nhẹ nỗi cực nhọc của người lao động, tiết kiệm
lao động sống, nhưng không phải bao giờ máy móc cũng là điều kiện để thu được
lợi nhuận hơn là sử dụng lao động thủ công. Việc nhận thức chính xác máy móc
chỉ chuyển giá trị sang sản phẩm mới theo mức độ khấu hao chứ không làm tăng
thêm giá trị không những giúp cho chúng ta hiểu đúng nguồn gốc của giá trị
thặng dư mà còn có ý nghĩa quan trọng trong quản lý kinh tế. Mỗi doanh nghiệp
phải tìm cách khấu hao máy móc càng nhanh càng tốt, càng tránh được những hao
mòn vô hình và cả hao mòn hữu hình do bảo quản kém hoặc sử dụng không hợp lý.
Do đó, việc đưa ra luận điểm máy móc cũng tạo ra giá
trị thặng dư của giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản thực chất là muốn phủ nhận vai
trò của giai cấp công nhân trong nền sản xuất xã hội cũng như trong cuộc đấu
tranh để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Suy
đến cùng, qua luận điểm này các học giả tư sản muốn phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân hay vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cuộc đấu
tranh chống lại sự áp bức bóc lột của CNTB để xây dựng xã hội mới của mình. Thực
chất, máy móc ngày càng hiện đại thì giai cấp công nhân ngày càng bị bóc lột
nhiều hơn với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn. Chính vì thế mà cuộc đấu
tranh của GCCN là tất yếu cũng như địa vị kinh tế xã hội của họ ngày càng rõ
ràng hơn./. Nguyen Thi
Nhận xét