TAM QUYỀN PHÂN LẬP Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN PHƯƠNG TÂY CÓ THẬT SỰ MANG LẠI LỢI ÍCH ĐA SỐ CHO NHÂN DÂN LAO ĐỘNG?
Gần đây trên một
số trang mạng, các thế lực phản động, thù địch bằng nhiều lời lẽ khác nhau
chúng kêu gọi Việt Nam cải cách tư pháp theo mô hình “Tam quyền phân lập” như ở
Mỹ và các nước phương Tây, vậy “Tam quyền phân lập” có thực sự ưu việt và nó được
thực hiện ở các nước Tư bản ra sao?.Nền tảng lập hiến của các nước tư bản khuôn
theo tư tưởng tam quyền phải phân lập, nhìn nhận các hình thái quyền lực trong
thế cô lập, đơn tính hay tuyến tính, nên đã yêu cầu lập pháp, hành pháp và tư
pháp phải luôn tách biệt với nhau, chế ước, kiểm soát “tuyệt đối” lẫn nhau. Họ
không nhận thấy tính chất thống nhất, hữu cơ của quyền lực nhà nước; lập pháp nằm
trong mối quan hệ với hành pháp và tư pháp; hành pháp và tư pháp xác định vị
trí của mình cũng như vậy. Quyền lực nhà nước vốn dĩ là một chỉnh thể, bao gồm
các bộ phận cấu thành quan hệ hữu cơ với nhau và với toàn bộ quyền lực nhà nước,
không thể phân tách độc lập và yêu cầu các quyền chế ước, kiểm soát “tuyệt đối”
lẫn nhau được. Trên thực tiễn, quyền lực nhà nước tư sản dù có cố tổ chức theo
tam quyền phân lập, nhưng thực chất vẫn là thống nhất, không tách rời. Vì thế,
những cố gắng phân quyền trong các hiến pháp tư sản đã bị phá sản trong thực tiễn;
tư tưởng của những người “sáng lập” ra nó cũng trở nên vô ích.
Nhiều tổ chức,
cá nhân luôn hết lời ca ngợi Hoa Kỳ là một “mẫu hình”, “thể hiện thành công nhất”
về “tam quyền phân lập”! Họ có biết rằng, trong thực tiễn nền chính trị Hoa Kỳ,
phân quyền chỉ có trong văn bản Hiến pháp mà thôi; dù có phân quyền thế nào
chăng nữa, thì lập pháp và hành pháp vẫn “đi đôi” với nhau để thực hiện quyền lực
nhà nước rất ngoạn mục. Hiến pháp Hoa Kỳ xác lập: “Quyền hành pháp sẽ được trao
cho Tổng thống Hoa Kỳ”. Nhưng Tổng thống thường là đại diện của đảng chiếm đa số
trong Hạ viện, thì lập pháp và hành pháp đều trong tay một đảng, lúc này phân
quyền đã bị biến dạng. Tổng thống có thể hướng Quốc hội về những chính sách
theo ý chí của mình. Trong trường hợp Tổng thống và đa số nghị viên ở hai đảng
khác nhau thì lập pháp và hành pháp vẫn xoắn xuýt với nhau. Tổng thống vẫn có
nhiều cách để can thiệp vào hoạt động lập pháp bằng: quyền đọc thông điệp trước
Quốc hội, vạch chương trình hoạt động hằng năm của Quốc hội, luôn trao đổi và
yêu cầu với các nghị sĩ thuộc đảng mình trình dự án luật theo ý chí của Tổng thống
trước Quốc hội. Khoản 3, Điều II của Hiến pháp này còn cho phép: “Tổng thống sẽ
thông báo thường kỳ cho Quốc hội về tình hình của Liên bang và đề nghị Quốc hội
xem xét những biện pháp mà Tổng thống thấy cần thiết và thích hợp. Trong trường
hợp cần thiết, Tổng thống có quyền triệu tập hai viện hoặc một trong hai viện.
Trong trường hợp bất đồng giữa hai viện về thời gian hoãn họp, Tổng thống sẽ
quyết định về thời gian cuộc họp sẽ hoãn đến bao giờ mà Tổng thống cho là thích
hợp”.
Cái cơ chế “kìm
hãm” và “đối trọng” được áp dụng từ học thuyết phân quyền với thực tiễn chính
trị Hoa Kỳ không thể tránh khỏi sự mâu thuẫn giữa lập pháp và hành pháp. Nhưng
do hai nhánh này luôn thống nhất ở khuynh hướng phát triển chung là phục vụ trước
tiên cho lợi ích giai cấp tư sản cầm quyền, nên những mâu thuẫn tất yếu cũng được
dàn xếp, cùng bắt tay nhau để thực thi quyền lực… Chẳng những thế, sau Chiến
tranh thế giới lần thứ hai, ở Mỹ, cái thực thể “Tổng thống có quyền lập pháp”
đã tồn tại một thời gian. Ngay cả “vai trò” và “xu hướng” muốn gắn kết các quyền
lực đã luôn là kỳ vọng mãi mãi không chỉ của cá nhân Tổng thống mà còn của cả mọi
người, lưỡng viện, công chúng và báo chí. Cuối thế kỷ XX, nhà chính trị học
James Robinson (Mỹ) nhận định: Quốc hội hầu như nhượng mọi quyền chủ động cho
ngành hành pháp; trong hai thập niên vừa qua, gần 80% luật được thông qua đều
xuất phát từ ngành hành pháp. Còn với tư pháp? Nhà nghiên cứu luật ở Việt Nam -
Bùi Ngọc Sơn đã nhận định rất xác đáng bản chất của vụ “Marbury chống Madison”
năm 1803: “Với quyền bảo hiến, Tòa án tối cao Mỹ đã giải thích Hiến pháp theo ý
chí của riêng mình, dần dần lấn át quyền lực của Quốc hội và Chính phủ. Hệ quả
là, Tòa án tối cao Mỹ, một cơ quan tư pháp với chức năng truyền thống là xét xử
những vi phạm pháp luật đã trở thành “Chính phủ của ông Tòa”. Với một thứ tòa
án như vậy, tồn tại từ năm 1880 đến 1940, thì sự can thiệp thô bạo của tư pháp
vào lập pháp và hành pháp chẳng đã làm nhàu nát ngay cái tư tưởng “tam quyền
phân lập” đó sao?
Nhưng tại sao
các nước tư bản vẫn cứ ca ngợi “tam quyền phân lập”? Xin thưa, đó chỉ là “cái
bánh vẽ”. Bởi, nguyên gốc tư tưởng của những người khởi xướng ra nó là để chống
chế độ chuyên chế phong kiến, đúng hơn là khi đó, hệ tư tưởng của giai cấp tư sản
đang lên, nhân danh xã hội đấu tranh, giành quyền cho giai cấp tư sản. Nhưng
khi giành được quyền lực, thì họ đâu có thực hành dân chủ cho toàn xã hội, bảo
đảm các quyền cho toàn thể dân chúng. Để tránh xung đột, cao hơn là cách mạng
xã hội do bất công, chuyên chế tư sản tạo ra, họ đã mượn luôn cái tư tưởng phân
quyền để dựng lên những cái hiến pháp được gọi là “công lý” và “tự do” ấy.
Đề cao “tam quyền
phân lập”, Hiến pháp Hoa Kỳ đã làm mất ngay quyền lực của dân từ đạo luật gốc
này. Trong cái thiết chế “tam quyền” ấy, duy chỉ có Quốc hội là dân được bầu trực
tiếp, song cũng chỉ đối với Hạ viện thôi. Còn Tổng thống, dân chúng đâu có được
bầu trực tiếp mà phải gián tiếp bầu qua đại cử tri: “Các đại cử tri sẽ họp lại ở
từng bang của họ và bằng lá phiếu bầu Tổng thống và Phó Tổng thống”. Riêng với
tư pháp, tuy Khoản 2, Điều II xác định: “Tổng thống sẽ bổ nhiệm… các quan tòa của
Tòa án Tối cao”, nhưng Khoản 1, Điều III lại xác lập: “Các quan tòa của Tòa án
Tối cao và các tòa án cấp dưới sẽ giữ chức vụ của mình đến suốt đời”… Với nhiều
lý do khác, song cũng vì cấu trúc “tam quyền phân lập” mà chính giới Hoa Kỳ phải
thừa nhận: “tổng số cử tri đi bầu nhìn chung - kể cả trong các cuộc bầu cử tổng
thống - đều thấp hơn so với ở hầu hết các nền dân chủ khác”, v.v.
Rõ ràng, dưới chế độ tư bản, tiếng là
phân quyền song chỉ là giả hiệu; hô hào “tam quyền phân lập” chẳng qua là một
thủ đoạn chính trị, đúng như nhận định xuyên thời đại của C.Mác: “Cứ 3 năm hoặc
6 năm một lần lại quyết định cá nhân nào trong giai cấp thống trị phải đại diện
và đàn áp nhân dân tại Nghị viện”10. Về vấn đề này, V.I. Lê-nin cũng đã phân
tích: “Trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương ngàn kế, - chế
độ dân chủ “thuần túy” càng phát triển, thì những mưu kế đó càng tinh xảo và có
hiệu quả, - để gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước”11.
Chính cái phương
thức tam quyền phân lập đó đã làm cho quyền lực của nhân dân bị phân rã, thu hẹp
chỉ còn nhất quyền cô lập. “Thành quả” đau xót cuối cùng là “Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về giai cấp tư sản”; quả đúng với bản chất: 1% và 99% mà chính
nhân dân Mỹ đã phơi bày cho thiên hạ biết qua phong trào Chiếm lấy phố Wall!
Như vậy “tam quyền
phân lập” là thủ đoạn chính trị lừa gạt nhân dân của giai cấp tư sản; bản chất
của phân quyền tư sản là thâu tóm quyền lực vào tay giai cấp tư sản, nhân dân
không phải là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Việt Nam chúng ta Hiến pháp năm 2013 khẳng
định: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” nên “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Hiến pháp xác định
như vậy không phải do ý chí chủ quan của bất kỳ một chủ thể nào mà do những quy
định tất yếu khách quan chi phối, bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị,
chế độ kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhằm đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là người làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội. Khi quyền
lực Nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân thì quyền lực này về nguyên tắc không
chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Bởi vậy, “tam quyền phân lập” không
phù hợp với thể chế chính trị ở Việt Nam. Do vậy chúng ta phải thường xuyên nêu
cao cảnh giác và tỉnh táo trước các luận điệu của các thế lực thù địch kêu gọi
Việt Nam thực hiện cái gọi là “Tam quyền phân lập” theo kiểu phương Tây.
ĐINHBINH
Nhận xét